WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 41.6 Kāmabhū (2)

Kinh Tương Ưng 41.6
Saṁyutta Nikāya 41.6

1. Phẩm Citta
1. Cittavagga

Kāmabhū (2)
Dutiyakāmabhūsutta

Một thời Tôn giả Kāmabhū trú tại Macchikāsaṇḍa, tại rừng Xoài.
Ekaṁ samayaṁ āyasmā kāmabhū macchikāsaṇḍe viharati ambāṭakavane.

Rồi gia chủ Citta đi đến Tôn giả Kāmabhū; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Kāmabhū, rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho citto gahapati yenāyasmā kāmabhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṁ nisīdi.

Ngồi một bên, gia chủ Citta thưa Tôn giả Kāmabhū:
Ekamantaṁ nisinno kho citto gahapati āyasmantaṁ kāmabhuṁ etadavoca:

“Thưa tôn giả, có bao nhiêu hành tất cả?”
“kati nu kho, bhante, saṅkhārā”ti?

“Này Gia chủ có ba hành: thân hành, khẩu hành và ý hành”.
“Tayo kho, gahapati, saṅkhārā— kāyasaṅkhāro, vacīsaṅkhāro, cittasaṅkhāro”ti.

“Lành thay, Thưa tôn giả”. Gia chủ Citta hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Kāmabhū nói, rồi hỏi thêm Tôn giả Kāmabhū một câu nữa:
“Sādhu, bhante”ti kho citto gahapati āyasmato kāmabhussa bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā āyasmantaṁ kāmabhuṁ uttariṁ pañhaṁ apucchi:

“Thưa tôn giả, thế nào là thân hành? Thế nào là khẩu hành? Thế nào là ý hành?”
“katamo pana, bhante, kāyasaṅkhāro, katamo vacīsaṅkhāro, katamo cittasaṅkhāro”ti?

“Hơi thở vô, hơi thở ra, này Gia chủ, là thân hành. Tầmtứ là khẩu hành. Tưởng và thọ là ý hành”.
“Assāsapassāsā kho, gahapati, kāyasaṅkhāro, vitakkavicārā vacīsaṅkhāro, saññā ca vedanā ca cittasaṅkhāro”ti.

“Lành thay, Thưa tôn giả”. Gia chủ Citta hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Kāmabhū nói … hỏi thêm câu hỏi nữa:
“Sādhu, bhante”ti kho citto gahapati …pe… uttariṁ pañhaṁ apucchi:

“Vì sao, Thưa tôn giả, thở vô thở ra là thân hành? Vì sao tầmtứ là khẩu hành? Vì sao tưởng và thọ là ý hành?”
“kasmā pana, bhante, assāsapassāsā kāyasaṅkhāro, kasmā vitakkavicārā vacīsaṅkhāro, kasmā saññā ca vedanā ca cittasaṅkhāro”ti?

“Thở vô thở ra, này Giả chủ, thuộc về thân. Các pháp này liên hệ đến thân; do vậy, thở vô thở ra là thân hành.
“Assāsapassāsā kho, gahapati, kāyikā. Ete dhammā kāyappaṭibaddhā, tasmā assāsapassāsā kāyasaṅkhāro.

Trước phải tầm cầu, tư sát, này Gia chủ, sau mới phát lời nói; do vậy, tầmtứ là khẩu hành. Tưởng và thọ thuộc về ý. Những pháp này liên hệ đến tâm; do vậy, tưởng và thọ là ý hành”.
Pubbe kho, gahapati, vitakketvā vicāretvā pacchā vācaṁ bhindati, tasmā vitakkavicārā vacīsaṅkhāro. Saññā ca vedanā ca cetasikā. Ete dhammā cittappaṭibaddhā, tasmā saññā ca vedanā ca cittasaṅkhāro”ti.

“Lành thay, Thưa tôn giả … hỏi thêm câu hỏi nữa:
“Sādhu …pe… uttariṁ pañhaṁ apucchi:

“Như thế nào, Thưa tôn giả, là chứng Diệt thọ tưởng định?”
“kathaṁ pana, bhante, saññāvedayitanirodhasamāpatti hotī”ti?

“Này Gia chủ, Tỷ-kheo chứng đạt Diệt thọ tưởng định không có nghĩ rằng: ‘Tôi sẽ chứng đạt Diệt thọ tưởng định’,
“Na kho, gahapati, saññāvedayitanirodhaṁ samāpajjantassa bhikkhuno evaṁ hoti: ‘ahaṁ saññāvedayitanirodhaṁ samāpajjissan’ti

hay: ‘Tôi đang chứng đạt Diệt thọ tưởng định’,
vā ‘ahaṁ saññāvedayitanirodhaṁ samāpajjāmī’ti

hay: ‘Tôi đã chứng đạt Diệt thọ tưởng định’.
vā ‘ahaṁ saññāvedayitanirodhaṁ samāpanno’ti vā.

Do tâm vị ấy trước đã được tu tập như vậy, nên đưa đến thành tựu như thật như vậy”.
Atha khvassa pubbeva tathā cittaṁ bhāvitaṁ hoti yaṁ taṁ tathattāya upanetī”ti.

“Lành thay … hỏi thêm câu nữa:
“Sādhu …pe… uttariṁ pañhaṁ apucchi:

“Tỷ-kheo chứng đạt Diệt thọ tưởng định, Thưa tôn giả, những pháp nào được đoạn diệt trước, thân hành, hay khẩu hành, hay ý hành?”
“saññāvedayitanirodhaṁ samāpajjantassa pana, bhante, bhikkhuno katame dhammā paṭhamaṁ nirujjhanti, yadi vā kāyasaṅkhāro, yadi vā vacīsaṅkhāro, yadi vā cittasaṅkhāro”ti?

“Tỷ-kheo chứng đạt Diệt thọ tưởng định, này Gia chủ, khẩu hành được diệt trước, thứ đến thân hành, rồi đến ý hành”.
“Saññāvedayitanirodhaṁ samāpajjantassa kho, gahapati, bhikkhuno vacīsaṅkhāro paṭhamaṁ nirujjhati, tato kāyasaṅkhāro, tato cittasaṅkhāro”ti.

“Lành thay … hỏi thêm câu hỏi nữa:
“Sādhu …pe… uttariṁ pañhaṁ apucchi:

“Thưa tôn giả, người đã chết, đã mệnh chung, và Tỷ-kheo chứng đạt Diệt thọ tưởng định, giữa những người này có những sai khác gì?”
“yvāyaṁ, bhante, mato kālaṅkato, yo cāyaṁ bhikkhu saññāvedayitanirodhaṁ samāpanno, imesaṁ kiṁ nānākaraṇan”ti?

“Ðối với người đã chết, đã mệnh chung, này Gia chủ, thân hành người ấy được đoạn diệt, được khinh an; khẩu hành được đoạn diệt, được khinh an; ý hành được đoạn diệt, được khinh an, thọ mạng được đoạn tận; sức nóng được tịnh chỉ; các căn bị hủy hoại.
“Yvāyaṁ, gahapati, mato kālaṅkato tassa kāyasaṅkhāro niruddho paṭippassaddho, vacīsaṅkhāro niruddho paṭippassaddho, cittasaṅkhāro niruddho paṭippassaddho, āyu parikkhīṇo, usmā vūpasantā, indriyāni viparibhinnāni.

Còn Tỷ-kheo đã chứng đạt Diệt thọ tưởng định, này Gia chủ, thân hành được đoạn diệt, khinh an; khẩu hành được đoạn diệt, khinh an; ý hành được đoạn diệt, khinh an; thọ mạng không bị đoạn tận; sức nóng không bị tịnh chỉ; các căn được trong sáng.
Yo ca khvāyaṁ, gahapati, bhikkhu saññāvedayitanirodhaṁ samāpanno, tassapi kāyasaṅkhāro niruddho paṭippassaddho, vacīsaṅkhāro niruddho paṭippassaddho, cittasaṅkhāro niruddho paṭippassaddho, āyu aparikkhīṇo, usmā avūpasantā, indriyāni vippasannāni.

Này Gia chủ, người đã chết, đã mệnh chung và Tỷ-kheo chứng đạt Diệt thọ tưởng định, giữa những người này có những sai khác như vậy”.
Yvāyaṁ, gahapati, mato kālaṅkato, yo cāyaṁ bhikkhu saññāvedayitanirodhaṁ samāpanno, idaṁ nesaṁ nānākaraṇan”ti.

“Lành thay … hỏi thêm câu hỏi nữa:
“Sādhu …pe… uttariṁ pañhaṁ apucchi:

“Như thế nào, Thưa tôn giả, là ra khỏi Diệt thọ tưởng định?”
“kathaṁ pana, bhante, Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā vuṭṭhānaṁ hotī”ti?

“Này Gia chủ, Tỷ-kheo ra khỏi Diệt thọ tưởng định không có suy nghĩ: ‘Tôi sẽ ra khỏi Diệt thọ tưởng định’,
“Na kho, gahapati, Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā vuṭṭhahantassa bhikkhuno evaṁ hoti: ‘ahaṁ Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā vuṭṭhahissan’ti

hay: ‘Tôi đang ra khỏi Diệt thọ tưởng định’,
vā ‘ahaṁ Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā vuṭṭhahāmī’ti

hay: ‘Tôi đã ra khỏi Diệt thọ tưởng định’.
vā ‘ahaṁ Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā vuṭṭhito’ti vā.

Do tâm vị ấy trước đã được tu tập như vậy, nên đưa đến thành tựu như thật như vậy”.
Atha khvassa pubbeva tathā cittaṁ bhāvitaṁ hoti, yaṁ taṁ tathattāya upanetī”ti.

“Lành thay, Thưa tôn giả … hỏi thêm câu hỏi nữa:
“Sādhu, bhante …pe… uttariṁ pañhaṁ apucchi:

“Tỷ-kheo ra khỏi Diệt thọ tưởng định, Thưa tôn giả, pháp nào khởi lên trước, thân hành, khẩu hành, hay ý hành?”
“Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā vuṭṭhahantassa pana, bhante, bhikkhuno katame dhammā paṭhamaṁ uppajjanti, yadi vā kāyasaṅkhāro, yadi vā vacīsaṅkhāro, yadi vā cittasaṅkhāro”ti?

“Tỷ-kheo ra khỏi Diệt thọ tưởng định, này Gia chủ, ý hành khởi lên trước, rồi đến thân hành, rồi đến khẩu hành”.
“Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā vuṭṭhahantassa, gahapati, bhikkhuno cittasaṅkhāro paṭhamaṁ uppajjati, tato kāyasaṅkhāro, tato vacīsaṅkhāro”ti.

“Lành thay, Thưa tôn giả … hỏi thêm câu hỏi nữa:
“Sādhu …pe… uttariṁ pañhaṁ apucchi:

“Tỷ-kheo ra khỏi Diệt thọ tưởng định, Thưa tôn giả, cảm giác được bao nhiêu xúc?”
“Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā vuṭṭhitaṁ pana, bhante, bhikkhuṁ kati phassā phusanti”?

“Tỷ-kheo ra khỏi Diệt thọ tưởng định cảm thọ được ba xúc: không xúc, vô tướng xúc, vô nguyện xúc”.
“Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā vuṭṭhitaṁ kho, gahapati, bhikkhuṁ tayo phassā phusanti— suññato phasso, animitto phasso, appaṇihito phasso”ti.

“Lành thay, Thưa tôn giả. Gia chủ Citta hoan hỷ, tín thọ… và hỏi thêm câu hỏi nữa:
“Sādhu …pe… uttariṁ pañhaṁ apucchi:

“Tỷ-kheo ra khỏi Diệt thọ tưởng định, Thưa tôn giả, tâm thiên về đâu, hướng về đâu, nghiêng về đâu?”
“Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā vuṭṭhitassa pana, bhante, bhikkhuno kiṁninnaṁ cittaṁ hoti, kiṁpoṇaṁ, kiṁpabbhāran”ti?

“Tỷ-kheo ra khỏi Diệt thọ tưởng định, này Gia chủ, tâm vị ấy thiên về viễn ly, hướng về viễn ly, nghiêng về viễn ly”.
“Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā vuṭṭhitassa kho, gahapati, bhikkhuno vivekaninnaṁ cittaṁ hoti vivekapoṇaṁ vivekapabbhāran”ti.

“Lành thay, Thưa tôn giả. Gia chủ Citta hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Kāmabhū nói rồi hỏi thêm câu hỏi nữa:
“Sādhu, bhante”ti kho citto gahapati āyasmato kāmabhussa bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā āyasmantaṁ kāmabhuṁ uttariṁ pañhaṁ apucchi:

“Thưa tôn giả, có bao nhiêu pháp giúp đỡ nhiều cho sự chứng đắc Diệt thọ tưởng định?”
“Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā pana, bhante, kati dhammā bahūpakārā”ti?

“Thật sự, này Gia chủ, điều Gia chủ cần phải hỏi trước, Gia chủ lại hỏi sau.
“Addhā kho tvaṁ, gahapati, yaṁ paṭhamaṁ pucchitabbaṁ taṁ pucchasi. Api ca tyāhaṁ byākarissāmi.

Tuy vậy, ta sẽ trả lời cho Gia chủ. Này Gia chủ, có hai pháp giúp đỡ rất nhiều cho Diệt thọ tưởng định được chứng đắc. Ðó là Chỉ và Quán”.
Saññā-vedayita-nirodha-samāpattiyā kho, gahapati, dve dhammā bahūpakārā— samatho ca vipassanā cā”ti.

Chaṭṭhaṁ.