WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 41.9 Loã Thể Kassapa

Kinh Tương Ưng 41.9
Saṁyutta Nikāya 41.9

1. Phẩm Citta
1. Cittavagga

Loã Thể Kassapa
Acelakassapasutta

Lúc bấy giờ lõa thể Kassapa đã đi đến Macchikāsaṇḍa, một bạn cũ của gia chủ Citta khi còn là gia chủ.
Tena kho pana samayena acelo kassapo macchikāsaṇḍaṁ anuppatto hoti cittassa gahapatino purāṇagihisahāyo.

Gia chủ Citta nghe “lõa thể Kassapa, một bạn cũ của mình khi còn là gia chủ, đã đến Macchikāsaṇḍa”.
Assosi kho citto gahapati: “acelo kira kassapo macchikāsaṇḍaṁ anuppatto amhākaṁ purāṇagihisahāyo”ti.

Rồi gia chủ Citta đi đến lõa thể Kassapa; sau khi đến, nói lên với lõa thể Kassapa những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên.
Atha kho citto gahapati yena acelo kassapo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā acelena kassapena saddhiṁ sammodi. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi.

Ngồi một bên, gia chủ Citta nói với lõa thể Kassapa:
Ekamantaṁ nisinno kho citto gahapati acelaṁ kassapaṁ etadavoca:

“Tôn giả Kassapa, Tôn giả xuất gia đã bao lâu?”
“kīvaciraṁ pabbajitassa, bhante kassapā”ti?

“Này Gia chủ, ta đã xuất gia khoảng ba mươi năm”.
“Tiṁsamattāni kho me, gahapati, vassāni pabbajitassā”ti.

“Thưa Tôn giả, trong ba mươi năm ấy, Tôn giả có chứng được pháp thượng nhơn nào, tri kiến thù thắng nào xứng đáng bậc Thánh và được lạc trú?”
“Imehi pana te, bhante, tiṁsamattehi vassehi atthi koci uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsuvihāro”ti?

“Này Gia chủ, trong suốt ba mươi năm ấy, ta không chứng được và không được lạc trú một pháp thượng nhân nào, một tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh, ngoại trừ sự lõa thể, sự trọc đầu, sự phủi bụi và đất cát”.
“Imehi kho me, gahapati, tiṁsamattehi vassehi pabbajitassa natthi koci uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsuvihāro, aññatra naggeyyā ca muṇḍeyyā ca pāvaḷanipphoṭanāya cā”ti.

Khi nghe nói vậy, gia chủ Citta nói với lõa thể Kassapa:
Evaṁ vutte, citto gahapati acelaṁ kassapaṁ etadavoca:

“Thật là bất tư nghì, thật là hy hữu, chánh pháp được thuyết trong suốt ba mươi năm ấy, không chứng được, không được lạc trú một pháp thượng nhân nào, một tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh!”
“acchariyaṁ vata, bho, abbhutaṁ vata, bho. Dhammassa svākkhātatā yatra hi nāma tiṁsamattehi vassehi na koci uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato abhavissa phāsuvihāro, aññatra naggeyyā ca muṇḍeyyā ca pāvaḷanipphoṭanāya cā”ti.

“Này Gia chủ, đã bao lâu Ông làm người cư sĩ?”
“Tuyhaṁ pana, gahapati, kīvaciraṁ upāsakattaṁ upagatassā”ti?

“Thưa Tôn giả, tôi thành người cư sĩ đã được ba mươi năm”.
“Mayhampi kho pana, bhante, tiṁsamattāni vassāni upāsakattaṁ upagatassā”ti.

“Trong suốt ba mươi năm ấy, này Gia chủ, Ông có chứng được và được lạc trú pháp thượng nhân nào, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?”
“Imehi pana te, gahapati, tiṁsamattehi vassehi atthi koci uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsuvihāro”ti?

“Sao lại không vậy được, thưa Tôn giả!
“Gihinopi siyā, bhante.

Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, tôi ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Ahañhi, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṁ savicāraṁ vivekajaṁ pītisukhaṁ paṭhamaṁ jhānaṁ upasampajja viharāmi.

Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, tôi chỉ tịnh tầmtứ … chứng và trú Thiền thứ hai.
Ahañhi, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, vitakkavicārānaṁ vūpasamā … dutiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharāmi.

Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, ly hỷ … tôi chứng và trú Thiền thứ ba.
Ahañhi, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, pītiyā ca virāgā …pe… tatiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharāmi.

Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, đoạn tận lạc … tôi chứng và trú Thiền thứ tư.
Ahañhi, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, sukhassa ca pahānā …pe… catutthaṁ jhānaṁ upasampajja viharāmi.

Nếu tôi mệnh chung sớm hơn Thế Tôn, thưa Tôn giả, không có gì lạ, nếu Thế Tôn sẽ nói về tôi như sau:
Sace kho panāhaṁ, bhante, bhagavato paṭhamataraṁ kālaṁ kareyyaṁ, anacchariyaṁ kho panetaṁ yaṁ maṁ bhagavā evaṁ byākareyya:

‘Không có một kiết sử nào, do bị trói buộc bởi kiết sử ấy, Citta trở lui tại thế giới này nữa’.”
‘natthi taṁ saṁyojanaṁ yena saṁyojanena saṁyutto citto gahapati puna imaṁ lokaṁ āgaccheyyā’”ti.

Khi nghe nói vậy, lõa thể Kassapa nói với gia chủ Citta:
Evaṁ vutte, acelo kassapo cittaṁ gahapatiṁ etadavoca:

“Thật là vi diệu, thưa Tôn giả! Thật là hy hữu, thưa Tôn giả, Chánh pháp được khéo thuyết. Một gia chủ mặc áo trắng lại có thể chứng đạt được, lại có thể lạc trú pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh! Thưa Gia chủ, hãy cho tôi được xuất gia trong Pháp và Luật này. Hãy cho tôi thọ đại giới”.
“acchariyaṁ vata bho, abbhutaṁ vata bho. Dhammassa svākkhātatā, yatra hi nāma gihī odātavasano evarūpaṁ uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṁ adhigamissati phāsuvihāraṁ. Labheyyāhaṁ, gahapati, imasmiṁ dhammavinaye pabbajjaṁ, labheyyaṁ upasampadan”ti.

Rồi gia chủ Citta đưa lõa thể Kassapa đến một số Tỷ-kheo trưởng lão; sau khi đến, thưa với các Tỷ-kheo trưởng lão:
Atha kho citto gahapati acelaṁ kassapaṁ ādāya yena therā bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā there bhikkhū etadavoca:

“Bạch chư Thượng tọa, lõa thể Kassapa này là một người bạn của chúng con khi chúng con còn là gia chủ.
“ayaṁ, bhante, acelo kassapo amhākaṁ purāṇagihisahāyo.

Chư Thượng tọa hãy cho người này xuất gia, cho thọ đại giới.
Imaṁ therā pabbājentu upasampādentu.

Con sẽ cố gắng cúng dường các vật liệu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh”.
Ahamassa ussukkaṁ karissāmi cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajja-parikkhārānan”ti.

Lõa thể Kassapa được xuất gia trong Pháp và Luật này, được thọ đại giới.
Alattha kho acelo kassapo imasmiṁ dhammavinaye pabbajjaṁ, alattha upasampadaṁ.

Ðược thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Kassapa sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Không bao lâu vị ấy đạt được mục đích mà các thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến: đó là Vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, tự mình chứng tri với thượng trí, chứng đạt và an trú.
Acirūpasampanno ca panāyasmā kassapo eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṁ pabbajanti, tadanuttaraṁ—brahmacariyapariyosānaṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi.

Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
“Khīṇā jāti, vusitaṁ brahmacariyaṁ, kataṁ karaṇīyaṁ, nāparaṁ itthattāyā”ti abbhaññāsi.

Và Tôn giả Kassapa trở thành một vị A-la-hán nữa.
Aññataro ca panāyasmā kassapo arahataṁ ahosīti.

Navamaṁ.