WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 42.13 Pāṭaliya

Kinh Tương Ưng 42.13
Saṁyutta Nikāya 42.13

1. Phẩm Thôn Trưởng
1. Gāmaṇivagga

Pāṭaliya
Pāṭaliyasutta

Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Koliya, tại thị trấn của dân chúng Koliya tên là Uttara.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā koliyesu viharati uttaraṁ nāma koliyānaṁ nigamo.

Rồi thôn trưởng Pāṭaliya đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho pāṭaliyo gāmaṇi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi.

Ngồi một bên, thôn trưởng Pāṭaliya bạch Thế Tôn:
Ekamantaṁ nisinno kho pāṭaliyo gāmaṇi bhagavantaṁ etadavoca:

“Con được nghe rằng, bạch Thế Tôn, ‘Sa-môn Gotama biết huyễn thuật’.
“sutaṁ metaṁ, bhante: ‘samaṇo gotamo māyaṁ jānātī’ti.

Bạch Thế Tôn, những ai nói rằng: ‘Sa-môn Gotama biết huyễn thuật’; những người ấy, bạch Thế Tôn, có nói đúng với lời Thế Tôn hay không? Họ không xuyên tạc Thế Tôn với điều không thật, họ trả lời đúng pháp, tùy pháp? Và những ai nói lời tương ứng đúng pháp không có lý do gì để chỉ trích.
Ye te, bhante, evamāhaṁsu: ‘samaṇo gotamo māyaṁ jānātī’ti, kacci te, bhante, bhagavato vuttavādino, na ca bhagavantaṁ abhūtena abbhācikkhanti, dhammassa cānudhammaṁ byākaronti, na ca koci sahadhammiko vādānuvādo gārayhaṁ ṭhānaṁ āgacchati?

Bạch Thế Tôn, chúng con không muốn chống báng Thế Tôn”.
Anabbhācikkhitukāmā hi mayaṁ, bhante, bhagavantan”ti.

“Những ai nói rằng, này Thôn trưởng, Sa-môn Gotama biết huyễn thuật, những người ấy nói đúng lời nói của Ta. Họ không xuyên tạc Ta với điều không thật. Họ nói lời đúng pháp, tùy pháp. Và những ai nói lời tương ứng đúng pháp không có lý do để chỉ trích”.
“Ye te, gāmaṇi, evamāhaṁsu: ‘samaṇo gotamo māyaṁ jānātī’ti, vuttavādino ceva me, te na ca maṁ abhūtena abbhācikkhanti, dhammassa cānudhammaṁ byākaronti, na ca koci sahadhammiko vādānuvādo gārayhaṁ ṭhānaṁ āgacchatī”ti.

“Như vậy là đúng sự thật, bạch Thế Tôn tuy rằng con không tin các vị Sa-môn, Bà-La-Môn ấy, nói rằng Sa-môn Gotama biết huyễn thuật. Như vậy, bạch Thế Tôn, cuối cùng Sa-môn Gotama là người sống theo huyễn thuật”.
“Saccaṁyeva kira, bho, mayaṁ tesaṁ samaṇabrāhmaṇānaṁ na saddahāma: ‘samaṇo gotamo māyaṁ jānātī’ti, samaṇo khalu bho gotamo māyāvī”ti.

“Ai nói rằng: ‘Như Lai biết huyễn thuật’, người ấy có nói rằng Như Lai là ‘người sống theo huyễn thuật’, “nói rằng như vậy là Thế Tôn, như vậy là Thiện Thệ?”
“Yo nu kho, gāmaṇi, evaṁ vadeti: ‘ahaṁ māyaṁ jānāmī’ti, so evaṁ vadeti: ‘ahaṁ māyāvī’”ti. “Tatheva taṁ bhagavā hoti, tatheva taṁ sugata hotī”ti.

“Vậy này Thôn trưởng, về vấn đề này Ta sẽ hỏi Ông. Nếu có thể kham nhẫn, Ông có thể trả lời.
“Tena hi, gāmaṇi, taññevettha paṭipucchissāmi; yathā te khameyya, tathā taṁ byākareyyāsi—

Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Ông có biết, này Thôn trưởng, các người làm thuê của dân chúng Kosala có búi tóc thòng xuống?”
Taṁ kiṁ maññasi, gāmaṇi, jānāsi tvaṁ koliyānaṁ lambacūḷake bhaṭe”ti?

“Con có biết, bạch Thế Tôn, các người làm thuê của dân chúng Kosala có búi tóc thòng xuống”.
“Jānāmahaṁ, bhante, koliyānaṁ lambacūḷake bhaṭe”ti.

“Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Dùng vào mục đích gì mà những người làm thuê của dân chúng Kosala có búi tóc thòng xuống?”
“Taṁ kiṁ maññasi, gāmaṇi, kimatthiyā koliyānaṁ lambacūḷakā bhaṭā”ti?

“Những người làm thuê có búi tóc thòng xuống của dân chúng Kosala được dùng để chế ngự các người ăn trộm và để mang đi các tin tức cho dân chúng Kosala. Ðược dùng vào mục đích ấy, bạch Thế Tôn, là những người làm thuê có búi tóc thòng xuống của dân chúng Kosala”.
“Ye ca, bhante, koliyānaṁ corā te ca paṭisedhetuṁ, yāni ca koliyānaṁ dūteyyāni tāni ca vahātuṁ, etadatthiyā, bhante, koliyānaṁ lambacūḷakā bhaṭā”ti.

“Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Ông có biết những người làm thuê có búi tóc thòng xuống của dân chúng Kosala là những người trì giới hay là những người ác giới?”
“Taṁ kiṁ maññasi, gāmaṇi, jānāsi tvaṁ koliyānaṁ lambacūḷake bhaṭe sīlavante vā te dussīle vā”ti?

“Con được biết, bạch Thế Tôn, những người làm thuê có búi tóc thòng xuống của dân chúng Kosala là những người ác giới, theo ác pháp. Nếu có những người theo ác giới, theo ác pháp ở đời, chính là những người làm thuê có búi tóc thòng xuống của dân chúng Kosala, không có ai khác”.
“Jānāmahaṁ, bhante, koliyānaṁ lambacūḷake bhaṭe dussīle pāpadhamme; ye ca loke dussīlā pāpadhammā koliyānaṁ lambacūḷakā bhaṭā tesaṁ aññatarā”ti.

“Này Thôn trưởng, nếu có ai nói rằng:
“Yo nu kho, gāmaṇi, evaṁ vadeyya:

‘Thôn trưởng Pāṭaliya biết được các người làm thuê có búi tóc thòng xuống của dân chúng Kosala là người ác giới, theo ác pháp, thời thôn trưởng Pāṭaliya cũng là người theo ác giới, theo ác pháp’, người nói như vậy có nói một cách chân chánh không?”
‘pāṭaliyo gāmaṇi jānāti koliyānaṁ lambacūḷake bhaṭe dussīle pāpadhamme, pāṭaliyopi gāmaṇi dussīlo pāpadhammo’ti, sammā nu kho so vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.
“No hetaṁ, bhante.

Những người làm thuê có búi tóc thòng xuống của các dân chúng Kosala là khác. Còn con là khác. Tự tánh của những người làm thuê có búi tóc thòng xuống của dân chúng Kosala là khác. Tự tánh của con là khác”.
Aññe, bhante, koliyānaṁ lambacūḷakā bhaṭā, aññohamasmi. Aññathādhammā koliyānaṁ lambacūḷakā bhaṭā, aññathādhammohamasmī”ti.

“Này Thôn trưởng, Ông sẽ được tiếng như sau: ‘Thôn trưởng Pāṭaliya biết rằng, các người làm thuê có búi tóc thòng xuống của dân chúng Kosala là những người ác giới, theo ác pháp. Nhưng thôn trưởng Pāṭaliya không phải là người có ác giới, theo ác pháp’. Như vậy, tại sao Như Lai lại không được tiếng rằng ‘Như Lai là người biết huyễn thuật, nhưng Như Lai không phải là người sống theo huyễn thuật’?
“Tvañhi nāma, gāmaṇi, lacchasi: ‘pāṭaliyo gāmaṇi jānāti koliyānaṁ lambacūḷake bhaṭe dussīle pāpadhamme, na ca pāṭaliyo gāmaṇi dussīlo pāpadhammo’ti, kasmā tathāgato na lacchati: ‘tathāgato māyaṁ jānāti, na ca tathāgato māyāvī’ti?

Này Thôn trưởng, Ta rõ biết huyễn thuật và quả dị thục của huyễn thuật. Và thực hành như thế nào mà một người làm huyễn thuật, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ta rõ biết như vậy.
Māyañcāhaṁ, gāmaṇi, pajānāmi, māyāya ca vipākaṁ, yathāpaṭipanno ca māyāvī kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati tañca pajānāmi.

Này Thôn trưởng, Ta rõ biết sát sanh và quả dị thục của sát sanh. Và Ta cũng rõ biết sự thực hành như thế nào mà một người sát sanh, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Pāṇātipātañcāhaṁ, gāmaṇi, pajānāmi, pāṇātipātassa ca vipākaṁ, yathāpaṭipanno ca pāṇātipātī kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati tañca pajānāmi.

Này Thôn trưởng, Ta rõ biết lấy của không cho và quả dị thục của lấy của không cho. Ta cũng rõ biết sự thực hành như thế nào mà một người lấy của không cho, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Adinnādānañcāhaṁ, gāmaṇi, pajānāmi, adinnādānassa ca vipākaṁ, yathāpaṭipanno ca adinnādāyī kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati tañca pajānāmi.

Này Thôn trưởng, Ta rõ biết sự sống tà hạnh trong các dục và quả dị thục của sự sống theo tà hạnh trong các dục. Và Ta cũng rõ biết sự thực hành như thế nào mà một người sống tà hạnh trong các dục, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Kāmesumicchācārañcāhaṁ, gāmaṇi, pajānāmi, kāmesumicchācārassa ca vipākaṁ, yathāpaṭipanno ca kāmesumicchācārī kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati tañca pajānāmi.

Này Thôn trưởng, Ta rõ biết nói láo và quả dị thục của nói láo. Và Ta cũng rõ biết sự thực hành như thế nào mà một người nói láo, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Musāvādañcāhaṁ, gāmaṇi, pajānāmi, musāvādassa ca vipākaṁ, yathāpaṭipanno ca musāvādī kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati tañca pajānāmi.

Này Thôn trưởng, Ta rõ biết nói hai lưỡi và quả dị thục của nói hai lưỡi. Và Ta cũng rõ biết sự thực hành như thế nào mà một người nói hai lưỡi sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Pisuṇavācañcāhaṁ, gāmaṇi, pajānāmi, pisuṇavācāya ca vipākaṁ, yathāpaṭipanno ca pisuṇavāco kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati tañca pajānāmi.

Này Thôn trưởng, Ta rõ biết nói lời độc ác và quả dị thục của nói lời độc ác. Và Ta cũng rõ biết sự thực hành như thế nào mà một người nói lời độc ác, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Pharusavācañcāhaṁ, gāmaṇi, pajānāmi, pharusavācāya ca vipākaṁ, yathāpaṭipanno ca pharusavāco kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati tañca pajānāmi.

Này Thôn trưởng, Ta rõ biết nói lời phù phiếm và quả dị thục của nói lời phù phiếm. Và Ta cũng rõ biết sự thực hành như thế nào mà một người nói lời phù phiếm, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Samphappalāpañcāhaṁ, gāmaṇi, pajānāmi, samphappalāpassa ca vipākaṁ, yathāpaṭipanno ca samphappalāpī kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati tañca pajānāmi.

Này Thôn trưởng, Ta rõ biết lòng tham dục và quả dị thục của lòng tham dục. Và Ta cũng rõ biết sự thực hành như thế nào mà một người có lòng tham dục, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Abhijjhañcāhaṁ, gāmaṇi, pajānāmi, abhijjhāya ca vipākaṁ, yathāpaṭipanno ca abhijjhālu kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati tañca pajānāmi.

Này Thôn trưởng, Ta rõ biết lòng sân hận và quả dị thục của lòng sân hận. Và Ta cũng rõ biết sự thực hành như thế nào mà một người có lòng sân hận, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, đọa ngục.
Byāpādapadosañcāhaṁ, gāmaṇi, pajānāmi, byāpādapadosassa ca vipākaṁ, yathāpaṭipanno ca byāpannacitto kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati tañca pajānāmi.

Này Thôn trưởng, Ta rõ biết tà kiến và quả dị thục của tà kiến. Và Ta cũng rõ biết một người có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Micchādiṭṭhiñcāhaṁ, gāmaṇi, pajānāmi, micchādiṭṭhiyā ca vipākaṁ, yathāpaṭipanno ca micchādiṭṭhiko kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati tañca pajānāmi.

Này Thôn trưởng, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói như sau, thấy như sau:
Santi hi, gāmaṇi, eke samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

‘Ai sát hại sanh mạng; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu.
‘yo koci pāṇamatipāteti, sabbo so diṭṭheva dhamme dukkhaṁ domanassaṁ paṭisaṁvedayati.

Ai lấy của không cho; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu.
Yo koci adinnaṁ ādiyati, sabbo so diṭṭheva dhamme dukkhaṁ domanassaṁ paṭisaṁvedayati.

Ai sống tà hạnh trong các dục; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu.
Yo koci kāmesu micchā carati, sabbo so diṭṭheva dhamme dukkhaṁ domanassaṁ paṭisaṁvedayati.

Ai nói láo; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu’.
Yo koci musā bhaṇati, sabbo so diṭṭheva dhamme dukkhaṁ domanassaṁ paṭisaṁvedayatī’ti.

Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người đeo vòng hoa, đeo bông tai, khéo tắm, khéo thoa dầu sáp, tóc râu chải chuốt, được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua. Về người này, họ hỏi:
Dissati kho pana, gāmaṇi, idhekacco mālī kuṇḍalī sunhāto suvilitto kappitakesamassu itthikāmehi rājā maññe paricārento. Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này đã làm gì mà được đeo vòng hoa, đeo bông tai, được khéo tắm, tóc râu chải chuốt, được nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua?’
‘ambho, ayaṁ puriso kiṁ akāsi mālī kuṇḍalī sunhāto suvilitto kappitakesamassu itthikāmehi rājā maññe paricāretī’ti?

Các Ông trả lời về người ấy như sau:
Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này đã đập tan kẻ thù nghịch của vua và đoạt mạng sống của kẻ đó.
‘ambho, ayaṁ puriso rañño paccatthikaṁ pasayha jīvitā voropesi.

Nhà vua hoan hỷ đối với người ấy, nên đã thưởng cho người ấy.
Tassa rājā attamano abhihāramadāsi.

Do vậy, người này được đeo vòng hoa, được đeo bông tai, được khéo tắm, râu tóc chải chuốt, được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua’.
Tenāyaṁ puriso mālī kuṇḍalī sunhāto suvilitto kappitakesamassu, itthikāmehi rājā maññe paricāretī’ti.

Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người hai tay bị trói chặt ra đằng sau bởi một sợi dây thật chắc, đầu cạo trọc, với tiếng trống chát tai, được dẫn đi từ đường này qua đường khác, từ ngã tư đường này qua ngã tư đường khác, rồi được dắt ra khỏi cửa thành phía Nam, và bị chặt đầu tại cửa thành phía Nam.
Dissati kho, gāmaṇi, idhekacco daḷhāya rajjuyā pacchābāhaṁ gāḷhabandhanaṁ bandhitvā khuramuṇḍaṁ karitvā kharassarena paṇavena rathiyāya rathiyaṁ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṁ parinetvā, dakkhiṇena dvārena nikkhāmetvā, dakkhiṇato nagarassa sīsaṁ chijjamāno.

Về người này, họ hỏi:
Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này đã làm gì mà hai tay bị trói chặt ra đằng sau bởi một sợi dây thật chắc, đầu cạo trọc, với tiếng trống chát tai, được dẫn đi từ đường này qua đường khác, từ ngã tư đường này qua ngã tư đường khác, rồi được dắt ra khỏi cửa thành phía Nam, và bị chặt đầu tại cửa thành phía Nam?’
‘ambho, ayaṁ puriso kiṁ akāsi, daḷhāya rajjuyā pacchābāhaṁ gāḷhabandhanaṁ bandhitvā khuramuṇḍaṁ karitvā kharassarena paṇavena rathiyāya rathiyaṁ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṁ parinetvā dakkhiṇena dvārena nikkhāmetvā dakkhiṇato nagarassa sīsaṁ chindatī’ti?

Các Ông trả lời về người ấy như sau:
Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này là kẻ thù của vua. Người này đã đoạt mạng sống một người đàn bà hay một người đàn ông.
‘ambho, ayaṁ puriso rājaverī itthiṁ vā purisaṁ vā jīvitā voropesi,

Do vậy, người của vua bắt người này và đối xử như vậy với người này’.
tena naṁ rājāno gahetvā evarūpaṁ kammakāraṇaṁ kārentī’ti.

Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Ông có bao giờ thấy hay nghe một người như vậy chăng?”
Taṁ kiṁ maññasi, gāmaṇi, api nu te evarūpaṁ diṭṭhaṁ vā sutaṁ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, con từng thấy và nghe một người như vậy, và sẽ được nghe trong tương lai”.
“Diṭṭhañca no, bhante, sutañca suyyissati cā”ti.

“Ở đây, này Thôn trưởng, những người Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau:
“Tatra, gāmaṇi, ye te samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

‘Ai sát hại sanh mạng; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu’. Họ nói đúng sự thật hay nói láo?”
‘yo koci pāṇamatipāteti, sabbo so diṭṭheva dhamme dukkhaṁ domanassaṁ paṭisaṁvedayatī’ti, saccaṁ vā te āhaṁsu musā vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, họ nói láo”.
“Musā, bhante”.

“Và những người nói lời hư ngụy, nói láo, họ là người trì giới hay ác giới”.
“Ye pana te tucchaṁ musā vilapanti, sīlavanto vā te dussīlā vā”ti?

“Là người ác giới, bạch Thế Tôn”.
“Dussīlā, bhante”.

“Những người ác giới, theo ác pháp là tà hạnh hay chánh hạnh?”
“Ye pana te dussīlā pāpadhammā micchāpaṭipannā vā te sammāpaṭipannā vā”ti?

“Là tà hạnh, bạch Thế Tôn”.
“Micchāpaṭipannā, bhante”.

“Những người tà hạnh là những người có tà kiến hay có chánh kiến?”
“Ye pana te micchāpaṭipannā micchādiṭṭhikā vā te sammādiṭṭhikā vā”ti?

“Là những người có tà kiến, bạch Thế Tôn”.
“Micchādiṭṭhikā, bhante”.

“Và những người có tà kiến, có hợp lý chăng khi đặt tin tưởng vào họ?”
“Ye pana te micchādiṭṭhikā kallaṁ nu tesu pasīditun”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người đeo vòng hoa, đeo bông tai … được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua. Về người này, họ hỏi:
“Dissati kho pana, gāmaṇi, idhekacco mālī kuṇḍalī …pe… itthikāmehi rājā maññe paricārento. Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Người này đã làm gì mà được đeo vòng hoa, đeo bông tai … được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua?’
‘ambho, ayaṁ puriso kiṁ akāsi mālī kuṇḍalī …pe… itthikāmehi rājā maññe paricāretī’ti?

Các Ông trả lời về người ấy như sau:
Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này đã đập tan kẻ thù nghịch của vua và đem về châu báu.
‘ambho, ayaṁ puriso rañño paccatthikassa pasayha ratanaṁ ahāsi.

Nhà vua hoan hỷ với người ấy nên đã thưởng người ấy.
Tassa rājā attamano abhihāramadāsi.

Do vậy, người này được đeo vòng hoa, được đeo bông tai … được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua’.
Tenāyaṁ puriso mālī kuṇḍalī …pe… itthikāmehi rājā maññe paricāretī’ti.

Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người hai tay bị trói chặt ra đằng sau … và bị chặt đầu tại cửa thành phía Nam. Về người này, họ hỏi:
Dissati kho, gāmaṇi, idhekacco daḷhāya rajjuyā …pe… dakkhiṇato nagarassa sīsaṁ chijjamāno tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này đã làm gì mà hai tay bị trói chặt ra đằng sau … tại cửa thành phía Nam?’
‘ambho, ayaṁ puriso kiṁ akāsi daḷhāya rajjuyā …pe… dakkhiṇato nagarassa sīsaṁ chindatī’ti?

Các Ông trả lời về người ấy như sau:
Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này đã từ làng hay từ ngôi rừng lấy những vật không cho, được gọi là ăn trộm.
‘ambho, ayaṁ puriso gāmā vā araññā vā adinnaṁ theyyasaṅkhātaṁ ādiyi.

Do vậy, những người của nhà vua bắt người này và đối xử như vậy với người này’.
Tena naṁ rājāno gahetvā evarūpaṁ kammakāraṇaṁ kārentī’ti.

Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Ông có bao giờ thấy hay nghe một người như vậy chăng?”
Taṁ kiṁ maññasi, gāmaṇi, api nu te evarūpaṁ diṭṭhaṁ vā sutaṁ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, con từng thấy và nghe một người như vậy, và sẽ được nghe trong tương lai”.
“Diṭṭhañca no, bhante, sutañca suyyissati cā”ti.

“Ở đây, này Thôn trưởng, những người Sa-môn, hay Bà-la-môn nào nói như vậy, thấy như sau:
“Tatra, gāmaṇi, ye te samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

‘Ai lấy của không cho; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu’.
‘yo koci adinnaṁ ādiyati, sabbo so diṭṭheva dhamme dukkhaṁ domanassaṁ paṭisaṁvedayatī’ti,

Họ nói đúng sự thật hay họ nói láo? … Và những người có tà kiến, có hợp lý chăng khi đặt tin tưởng vào họ?”
saccaṁ vā te āhaṁsu musā vāti …pe… kallaṁ nu tesu pasīditun”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người đeo vòng hoa, đeo bông tai … được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua. Về người này, họ nói:
“Dissati kho pana, gāmaṇi, idhekacco mālī kuṇḍalī …pe… itthikāmehi rājā maññe paricārento. Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Người này đã làm gì mà được đeo vòng hoa, đeo bông tai … được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua?’ Các Ông trả lời về người ấy như sau:
‘ambho, ayaṁ puriso kiṁ akāsi mālī kuṇḍalī …pe… itthikāmehi rājā maññe paricāretī’ti? Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này có tà hạnh với những người vợ của kẻ thù nghịch của vua.
‘ambho, ayaṁ puriso rañño paccatthikassa dāresu cārittaṁ āpajji.

Nhà vua hoan hỷ với người ấy nên đã thưởng người ấy.
Tassa rājā attamano abhihāramadāsi.

Do vậy, người ấy được đeo vòng hoa, được đeo bông tai … được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua’.
Tenāyaṁ puriso mālī kuṇḍalī …pe… itthikāmehi rājā maññe paricāretī’ti.

Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người hai tay bị trói chặt … và bị chặt đầu tại cửa thành phía Nam. Về người này, họ nói:
Dissati kho, gāmaṇi, idhekacco daḷhāya rajjuyā …pe… dakkhiṇato nagarassa sīsaṁ chijjamāno. Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này đã làm gì mà hai tay bị trói chặt ra đằng sau … tại cửa thành phía Nam?’ Các Ông trả lời về người ấy như sau:
‘ambho, ayaṁ puriso kiṁ akāsi daḷhāya rajjuyā …pe… dakkhiṇato nagarassa sīsaṁ chindatī’ti? Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người ấy đã phạm tà hạnh với các phụ nữ và các con gái các gia đình. Do vậy, các người của nhà vua bắt người ấy và đối xử như vậy với người ấy’.
‘ambho, ayaṁ puriso kulitthīsu kulakumārīsu cārittaṁ āpajji, tena naṁ rājāno gahetvā evarūpaṁ kammakāraṇaṁ kārentī’ti.

Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Ông có bao giờ thấy hay nghe một người như vậy chăng?”
Taṁ kiṁ maññasi, gāmaṇi, api nu te evarūpaṁ diṭṭhaṁ vā sutaṁ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, con từng thấy và nghe một người như vậy, và sẽ được nghe trong tương lai”.
“Diṭṭhañca no, bhante, sutañca suyyissati cā”ti.

“Ở đây, này Thôn trưởng, những người Sa-môn, Bà-la-môn nào nói như sau, thấy như sau:
“Tatra, gāmaṇi, ye te samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

‘Ai có tà hạnh trong các dục; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu’. Họ nói đúng sự thật hay họ nói láo? …
‘yo koci kāmesu micchā carati, sabbo so diṭṭheva dhamme dukkhaṁ domanassaṁ paṭisaṁvedayatī’ti, saccaṁ vā te āhaṁsu musā vāti …pe…

Và những người có tà kiến, có hợp lý chăng khi đặt tin tưởng vào họ?”
kallaṁ nu tesu pasīditun”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người đeo vòng hoa, đeo bông tai, khéo tắm, khéo thoa dầu sáp, tóc râu chải chuốt, được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua. Về người này, họ hỏi:
“Dissati kho pana, gāmaṇi, idhekacco mālī kuṇḍalī sunhāto suvilitto kappitakesamassu itthikāmehi rājā maññe paricārento. Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này đã làm gì mà được đeo vòng hoa, đeo bông tai, được khéo tắm, tóc râu chải chuốt, được nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua?’
‘ambho, ayaṁ puriso kiṁ akāsi mālī kuṇḍalī sunhāto suvilitto kappitakesamassu itthikāmehi rājā maññe paricāretī’ti?

Các Ông trả lời về người ấy như sau:
Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này đã làm Đức Vua thích thú với những lời nói dối.(*)
‘ambho, ayaṁ puriso rājānaṁ musāvādena hāsesi.

Nhà vua hoan hỷ đối với người ấy, nên đã thưởng cho người ấy. …’ …
Tassa rājā attamano abhihāramadāsi.

Do vậy, người này được đeo vòng hoa, được đeo bông tai, được khéo tắm, râu tóc chải chuốt, được các nữ nhân phục vụ các dục chẳng khác vị vua’.
Tenāyaṁ puriso mālī kuṇḍalī sunhāto suvilitto kappitakesamassu itthikāmehi rājā maññe paricāretī’ti.

Nhưng này Thôn trưởng, ở đây, chúng ta thấy có người hai tay bị trói chặt ra đằng sau bởi một sợi dây thật chắc, đầu cạo trọc, với tiếng trống chát tai, được dẫn đi từ đường này qua đường khác, từ ngã tư đường này qua ngã tư đường khác, rồi được dắt ra khỏi cửa thành phía Nam, và bị chặt đầu tại cửa thành phía Nam.
Dissati kho, gāmaṇi, idhekacco daḷhāya rajjuyā pacchābāhaṁ gāḷhabandhanaṁ bandhitvā khuramuṇḍaṁ karitvā kharassarena paṇavena rathiyāya rathiyaṁ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṁ parinetvā dakkhiṇena dvārena nikkhāmetvā dakkhiṇato nagarassa sīsaṁ chijjamāno.

Về người này, họ hỏi:
Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người này đã làm gì mà hai tay bị trói chặt ra đằng sau bởi một sợi dây thật chắc, đầu cạo trọc, với tiếng trống chát tai, được dẫn đi từ đường này qua đường khác, từ ngã tư đường này qua ngã tư đường khác, rồi được dắt ra khỏi cửa thành phía Nam, và bị chặt đầu tại cửa thành phía Nam?’
‘ambho, ayaṁ puriso kiṁ akāsi daḷhāya rajjuyā pacchābāhaṁ gāḷhabandhanaṁ bandhitvā khuramuṇḍaṁ karitvā kharassarena paṇavena rathiyāya rathiyaṁ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṁ parinetvā, dakkhiṇena dvārena nikkhāmetvā, dakkhiṇato nagarassa sīsaṁ chindatī’ti?

Các Ông trả lời về người ấy như sau:
Tamenaṁ evamāhaṁsu:

‘Này Bạn, người ấy do nói láo, đã phá hại tài sản của người gia chủ hay con của người gia chủ.
‘ambho, ayaṁ puriso gahapatissa vā gahapatiputtassa vā musāvādena atthaṁ bhañji,

Do vậy, các người của nhà vua bắt người ấy và đối xử như vậy với người ấy.’
tena naṁ rājāno gahetvā evarūpaṁ kammakāraṇaṁ kārentī’ti.

Này Thôn trưởng, Ông nghĩ thế nào? Ông có bao giờ thấy hay nghe một người như vậy chăng?”
Taṁ kiṁ maññasi, gāmaṇi, api nu te evarūpaṁ diṭṭhaṁ vā sutaṁ vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, con từng thấy và nghe một người như vậy, và sẽ được nghe trong tương lai.”
“Diṭṭhañca no, bhante, sutañca suyyissati cā”ti.

“Ở đây, này Thôn trưởng, những Sa-môn, Bà-la-môn nào nói như sau, thấy như sau:
“Tatra, gāmaṇi, ye te samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

Ai nói láo; tất cả, ngay trong hiện tại, cảm thọ khổ ưu’, họ nói đúng sự thật hay nói láo?”
‘yo koci musā bhaṇati, sabbo so diṭṭheva dhamme dukkhaṁ domanassaṁ paṭisaṁvedayatī’ti, saccaṁ vā te āhaṁsu musā vā”ti?

“Bạch Thế Tôn, họ nói láo.”
“Musā, bhante”.

“Và những người nói lời hư ngụy, nói láo, họ là người trì giới hay ác giới?”
“Ye pana te tucchaṁ musā vilapanti sīlavanto vā te dussīlā vā”ti?

“Là người ác giới, bạch Thế Tôn.”
“Dussīlā, bhante”.

“Những người ác giới, theo ác pháp là tà hạnh hay chánh hạnh?”
“Ye pana te dussīlā pāpadhammā micchāpaṭipannā vā te sammāpaṭipannā vā”ti?

“Là tà hạnh, bạch Thế Tôn.”
“Micchāpaṭipannā, bhante”.

“Những người tà hạnh là những người có tà kiến hay có chánh kiến?”
“Ye pana te micchāpaṭipannā micchādiṭṭhikā vā te sammādiṭṭhikā vā”ti?

“Là những người có tà kiến, bạch Thế Tôn.”
“Micchādiṭṭhikā, bhante”.

“Và những người có tà kiến, có hợp lý chăng khi đặt tin tưởng vào họ?”
“Ye pana te micchādiṭṭhikā kallaṁ nu tesu pasīditun”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.
“No hetaṁ, bhante”.

“Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn!
“Acchariyaṁ, bhante, abbhutaṁ, bhante.

Con có một ngôi nhà nghỉ mát, tại đấy có những giường, có những chỗ ngồi, có những đèn dầu.
Atthi me, bhante, āvasathāgāraṁ. Tattha atthi mañcakāni, atthi āsanāni, atthi udakamaṇiko, atthi telappadīpo.

Có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào đến trú ngụ tại đấy, tùy theo khả năng, tùy theo sức lực, con chia sẻ với các vị ấy.
Tattha yo samaṇo vā brāhmaṇo vā vāsaṁ upeti, tenāhaṁ yathāsatti yathābalaṁ saṁvibhajāmi.

Thuở trước, bạch Thế Tôn, có bốn vị Ðạo sư có quan điểm khác nhau, có kham nhẫn khác nhau, có sở thích khác nhau đến trú ngụ tại ngôi nhà nghỉ mát ấy.
Bhūtapubbaṁ, bhante, cattāro satthāro nānādiṭṭhikā nānākhantikā nānārucikā, tasmiṁ āvasathāgāre vāsaṁ upagacchuṁ.

Một vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
Eko satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

‘Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời sau, không có cha, không có mẹ, không có loại hóa sanh; ở đời, không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng chánh hạnh, đã tự mình chứng tri, chứng ngộ đời này đời khác, và truyền dạy lại’.
‘natthi dinnaṁ, natthi yiṭṭhaṁ, natthi hutaṁ, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko. Natthi ayaṁ loko, natthi paro loko, natthi mātā, natthi pitā, natthi sattā opapātikā, natthi loke samaṇabrāhmaṇā sammaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṁ parañca lokaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedentī’ti.

Một vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
Eko satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

‘Có bố thí, có lễ hy sinh, có tế tự, có quả dị thục các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời sau, có cha, có mẹ, có loại hóa sanh ; ở đời, có những vị Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri, chứng ngộ đời này đời khác, và truyền dạy lại’.
‘atthi dinnaṁ, atthi yiṭṭhaṁ, atthi hutaṁ, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko, atthi ayaṁ loko, atthi paro loko, atthi mātā, atthi pitā, atthi sattā opapātikā, atthi loke samaṇabrāhmaṇā sammaggatā sammāpaṭipannā, ye imañca lokaṁ parañca lokaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedentī’ti.

Một vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
Eko satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

‘Tự làm, hay khiến người làm, chém giết, hay tự mình chém giết, đốt nấu, hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn, hay khiến người gây phiền muộn, gây ảo não, hay khiến người gây ảo não, tự mình gây sợ hãi, hay khiến người gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo.
‘karoto kārayato, chindato chedāpayato, pacato pācāpayato, socayato socāpayato, kilamato kilamāpayato, phandato phandāpayato, pāṇamatipātayato, adinnaṁ ādiyato, sandhiṁ chindato, nillopaṁ harato, ekāgārikaṁ karoto, paripanthe tiṭṭhato, paradāraṁ gacchato, musā bhaṇato, karoto na karīyati pāpaṁ.

Do duyên như vậy, không có tội ác, không có đi đến tội ác. Nếu lấy một bánh xe sắc bén, giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành một chồng thịt; do duyên ấy, cũng không có tội ác, không đi đến tội ác.
Khurapariyantena cepi cakkena yo imissā pathaviyā pāṇe ekaṁ maṁsakhalaṁ ekaṁ maṁsapuñjaṁ kareyya, natthi tatonidānaṁ pāpaṁ, natthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu; do duyên ấy cũng không có tội ác, không đi đến tội ác.
Dakkhiṇañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya hananto ghātento chindanto chedāpento pacanto pācāpento, natthi tatonidānaṁ pāpaṁ, natthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ; do duyên ấy, không có công đức, không đi đến công đức.
Uttarañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya dadanto dāpento yajanto yajāpento, natthi tatonidānaṁ puññaṁ, natthi puññassa āgamo.

Bố thí, tự chế, thu thúc và chơn thật cũng không có công đức, không đi đến công đức.’(*)
Dānena damena saṁyamena saccavajjena natthi puññaṁ, natthi puññassa āgamo’ti.

Một vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
Eko satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

‘Tự mình làm hay khiến người làm, chém giết, hay tự mình chém giết, đốt nấu, hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn, hay khiến người gây phiền muộn, gây ảo não, hay khiến người gây ảo não, tự mình gây sợ hãi, hay khiến người gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo.
‘karoto kārayato, chindato chedāpayato, pacato pācāpayato, socayato socāpayato, kilamato kilamāpayato, phandato phandāpayato, pāṇamatipātayato, adinnaṁ ādiyato, sandhiṁ chindato, nillopaṁ harato, ekāgārikaṁ karoto, paripanthe tiṭṭhato, paradāraṁ gacchato, musā bhaṇato, karoto karīyati pāpaṁ.

Hành động như vậy có tội ác, có đi đến tội ác. Nếu lấy một bánh xe sắc bén, giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành một chồng thịt; vì vậy có tội ác, có đi đến tội ác.
Khurapariyantena cepi cakkena yo imissā pathaviyā pāṇe ekaṁ maṁsakhalaṁ ekaṁ maṁsapuñjaṁ kareyya, atthi tatonidānaṁ pāpaṁ, atthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi đến bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, có tội ác; do duyên như vậy, có đi đến tội ác.
Dakkhiṇañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya hananto ghātento chindanto chedāpento pacanto pācāpento, atthi tatonidānaṁ pāpaṁ, atthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ; do duyên như vậy, có công đức, có đi đến công đức.
Uttarañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya dadanto dāpento, yajanto yajāpento, atthi tatonidānaṁ puññaṁ, atthi puññassa āgamo.

Bố thí, tự chế, thu thúc và chơn thật có công đức, đi đến công đức.’(*)
Dānena damena saṁyamena saccavajjena atthi puññaṁ, atthi puññassa āgamo’ti.

Về vấn đề này, bạch Thế Tôn, con có phân vân, con có nghi ngờ:
Tassa mayhaṁ, bhante, ahudeva kaṅkhā, ahu vicikicchā:

‘Giữa những Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn này ; ai là người nói sự thật, ai là người nói láo?’”
‘kosu nāma imesaṁ bhavataṁ samaṇabrāhmaṇānaṁ saccaṁ āha, ko musā’”ti?

“Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng, là sự phân vân của Ông. Thôi vừa rồi, là sự nghi ngờ của Ông. Chính do ở điểm phân vân mà nghi ngờ khởi lên”.
“Alañhi te, gāmaṇi, kaṅkhituṁ, alaṁ vicikicchituṁ. Kaṅkhanīye ca pana te ṭhāne vicikicchā uppannā”ti.

“Bạch Thế Tôn, nhưng con có lòng tín thành như vậy đối với Thế Tôn. Thế Tôn có thể thuyết pháp cho con để sự phân vân này có thể đoạn diệt.”
“Evaṁ pasannohaṁ, bhante, bhagavati. Pahoti me bhagavā tathā dhammaṁ desetuṁ yathāhaṁ imaṁ kaṅkhādhammaṁ pajaheyyan”ti.

“Này Thôn trưởng, có pháp Thiền định.
“Atthi, gāmaṇi, dhammasamādhi.

Ở đây, nếu Ông chứng được tâm định, thời Ông có thể đoạn diệt sự phân vân này của Ông.
Tatra ce tvaṁ cittasamādhiṁ paṭilabheyyāsi. Evaṁ tvaṁ imaṁ kaṅkhādhammaṁ pajaheyyāsi.

Và này Thôn trưởng, thế nào là pháp Thiền định?
Katamo ca, gāmaṇi, dhammasamādhi?

Ở đây, này Thôn trưởng, vị Thánh đệ tử sau khi đoạn tận sát sanh, sống từ bỏ sát sanh. Sau khi đoạn tận lấy của không cho, vị ấy sống từ bỏ lấy của không cho. Sau khi đoạn tận tà hạnh trong các dục, vị ấy sống từ bỏ tà hạnh trong các dục. Sau khi đoạn tận nói láo, vị ấy sống từ bỏ nói láo. Sau khi đoạn tận nói hai lưỡi, vị ấy sống từ bỏ nói hai lưỡi. Sau khi đoạn tận nói lời độc ác, vị ấy sống từ bỏ nói lời độc ác. Sau khi đoạn tận nói lời phù phiếm, vị ấy sống từ bỏ nói lời phù phiếm. Sau khi đoạn tận tham dục, vị ấy sống từ bỏ lòng tham. Sau khi đoạn tận lòng sân, vị ấy sống từ bỏ lòng sân. Sau khi từ bỏ tà kiến, vị ấy sống theo chánh kiến.
Idha, gāmaṇi, ariyasāvako pāṇātipātaṁ pahāya pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānaṁ pahāya adinnādānā paṭivirato hoti, kāmesumicchācāraṁ pahāya kāmesumicchācārā paṭivirato hoti, musāvādaṁ pahāya musāvādā paṭivirato hoti, pisuṇaṁ vācaṁ pahāya pisuṇāya vācāya paṭivirato hoti, pharusaṁ vācaṁ pahāya pharusāya vācāya paṭivirato hoti, samphappalāpaṁ pahāya samphappalāpā paṭivirato hoti, abhijjhaṁ pahāya anabhijjhālu hoti, byāpādapadosaṁ pahāya abyāpannacitto hoti, micchādiṭṭhiṁ pahāya sammādiṭṭhiko hoti.

Vị Thánh đệ tử ấy, này Thôn trưởng, với lòng tham từ bỏ như vậy, với lòng sân từ bỏ như vậy, không có lòng si, tỉnh giác, chánh niệm, sống biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy, phương từ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư; như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Sa kho so, gāmaṇi, ariyasāvako evaṁ vigatābhijjho vigatabyāpādo asammūḷho sampajāno paṭissato mettāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharati, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ, iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.

Vị ấy suy tư như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
‘yvāyaṁ satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

“Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời sau, không có cha, không có mẹ, không có loại hóa sanh. Ở đời không có những vị Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri, chứng ngộ đời này, đời khác, và truyền dạy lại.”
“natthi dinnaṁ, natthi yiṭṭhaṁ, natthi hutaṁ, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko, natthi ayaṁ loko, natthi paro loko, natthi mātā, natthi pitā, natthi sattā opapātikā, natthi loke samaṇabrāhmaṇā, sammaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṁ parañca lokaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedentī”ti.

Nếu vị Tôn giả Ðạo sư này nói đúng sự thật, ta cũng không có tội lỗi gì. Vì ta không có hại một ai, kẻ yếu hay kẻ mạnh?
Sace tassa bhoto satthuno saccaṁ vacanaṁ, apaṇṇakatāya mayhaṁ, yvāhaṁ na kiñci byābādhemi tasaṁ vā thāvaraṁ vā?

Ở đây cả hai phương diện, ta là kẻ gieo quẻ gặp may. Thân ta được hộ trì, lời nói được hộ trì, ý được hộ trì. Và sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.’
Ubhayamettha kaṭaggāho, yaṁ camhi kāyena saṁvuto vācāya saṁvuto manasā saṁvuto, yañca kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjissāmī’ti.

Với vị ấy, hân hoan sanh khởi;
Tassa pāmojjaṁ jāyati.

do hân hoan, hỷ sanh khởi;
Pamuditassa pīti jāyati.

do hỷ, thân được khinh an;
Pītimanassa kāyo passambhati.

do thân khinh an, lạc thọ được cảm giác;
Passaddhakāyo sukhaṁ vedayati.

với người cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Sukhino cittaṁ samādhiyati.

Này Thôn trưởng, đây là pháp Thiền định.
Ayaṁ kho, gāmaṇi, dhammasamādhi.

Ở đây, nếu Ông được tâm định như vậy, sự phân vân của Ông được đoạn diệt.
Tatra ce tvaṁ cittasamādhiṁ paṭilabheyyāsi, evaṁ tvaṁ imaṁ kaṅkhādhammaṁ pajaheyyāsi.

Vị Thánh đệ tử ấy, này Thôn trưởng, với lòng tham được từ bỏ như vậy, với lòng sân được từ bỏ như vậy, không có lòng si, sống tỉnh giác, chánh niệm, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy, phương thứ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư; như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân.
Sa kho so, gāmaṇi, ariyasāvako evaṁ vigatābhijjho vigatabyāpādo asammūḷho sampajāno paṭissato mettāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharati, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ, iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.

Vị ấy suy tư như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
‘yvāyaṁ satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

“Có bố thí, có lễ hy sinh, có tế tự, có quả dị thục các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời sau, có cha, có mẹ, có các loại hóa sanh. Ở đời, có những vị Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri, chứng ngộ đời này, đời khác và truyền dạy lại.”
“atthi dinnaṁ, atthi yiṭṭhaṁ, atthi hutaṁ, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko, atthi ayaṁ loko, atthi paro loko, atthi mātā, atthi pitā, atthi sattā opapātikā, atthi loke samaṇabrāhmaṇā, sammaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṁ parañca lokaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedentī”ti.

Nếu vị Tôn giả Ðạo sư này nói đúng sự thật, ta cũng không có tội lỗi gì, vì ta không hại một ai, kẻ yếu hay kẻ mạnh.
Sace tassa bhoto satthuno saccaṁ vacanaṁ, apaṇṇakatāya mayhaṁ, yvāhaṁ na kiñci byābādhemi tasaṁ vā thāvaraṁ vā?

Ở đây, cả hai phương diện, ta là kẻ gieo quẻ gặp may. Thân ta được hộ trì. Lời nói ta được hộ trì. Ý ta được hộ trì. Và sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.’
Ubhayamettha kaṭaggāho, yaṁ camhi kāyena saṁvuto vācāya saṁvuto manasā saṁvuto, yañca kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjissāmī’ti.

Với vị ấy, hân hoan sanh khởi;
Tassa pāmojjaṁ jāyati.

do hân hoan, hỷ sanh khởi;
Pamuditassa pīti jāyati.

do hỷ, thân được khinh an;
Pītimanassa kāyo passambhati.

do thân khinh an, lạc thọ được cảm giác;
Passaddhakāyo sukhaṁ vedayati.

với người cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Sukhino cittaṁ samādhiyati.

Này Thôn trưởng, đây là pháp Thiền định.
Ayaṁ kho, gāmaṇi, dhammasamādhi.

Ở đây, nếu Ông được tâm định như vậy, sự phân vân của Ông được đoạn diệt.
Tatra ce tvaṁ cittasamādhiṁ paṭilabheyyāsi, evaṁ tvaṁ imaṁ kaṅkhādhammaṁ pajaheyyāsi.

Vị Thánh đệ tử ấy, này Thôn trưởng, với lòng tham từ bỏ như vậy, với lòng sân từ bỏ như vậy, không có lòng si, tỉnh giác, chánh niệm, sống biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy, phương từ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư; như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Sa kho so, gāmaṇi, ariyasāvako evaṁ vigatābhijjho vigatabyāpādo asammūḷho sampajāno paṭissato mettāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharati, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ, iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.

Vị ấy suy tư như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
‘yvāyaṁ satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

“Tự làm, hay khiến người làm, chém giết, hay tự mình chém giết, đốt nấu, hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn, hay khiến người gây phiền muộn, gây ảo não, hay khiến người gây ảo não, tự mình gây sợ hãi, hay khiến người gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo.
“karoto kārayato, chindato chedāpayato, pacato pācāpayato, socayato socāpayato, kilamato kilamāpayato, phandato phandāpayato, pāṇamatipātayato, adinnaṁ ādiyato, sandhiṁ chindato, nillopaṁ harato, ekāgārikaṁ karoto, paripanthe tiṭṭhato, paradāraṁ gacchato, musā bhaṇato, karoto na karīyati pāpaṁ.

Do duyên như vậy, không có tội ác, không có đi đến tội ác. Nếu lấy một bánh xe sắc bén, giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành một chồng thịt; do duyên ấy, cũng không có tội ác, không đi đến tội ác.
Khurapariyantena cepi cakkena yo imissā pathaviyā pāṇe ekaṁ maṁsakhalaṁ ekaṁ maṁsapuñjaṁ kareyya, natthi tatonidānaṁ pāpaṁ, natthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu; do duyên ấy cũng không có tội ác, không đi đến tội ác.
Dakkhiṇañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya hananto ghātento chindanto chedāpento pacanto pācāpento, natthi tatonidānaṁ pāpaṁ, natthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ; do duyên ấy, không có công đức, không đi đến công đức.
Uttarañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya dadanto dāpento, yajanto yajāpento, natthi tatonidānaṁ puññaṁ, natthi puññassa āgamo.

Bố thí, tự chế, thu thúc và chơn thật cũng không có công đức, không đi đến công đức”.(*)
Dānena damena saṁyamena saccavajjena natthi puññaṁ, natthi puññassa āgamo”ti.

Nếu vị Tôn giả Ðạo sư này nói đúng sự thật, ta cũng không có tội lỗi gì. Vì ta không có hại một ai, kẻ yếu hay kẻ mạnh?
Sace tassa bhoto satthuno saccaṁ vacanaṁ, apaṇṇakatāya mayhaṁ, yvāhaṁ na kiñci byābādhemi tasaṁ vā thāvaraṁ vā?

Ở đây cả hai phương diện, ta là kẻ gieo quẻ gặp may. Thân ta được hộ trì, lời nói được hộ trì, ý được hộ trì. Và sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này’.
Ubhayamettha kaṭaggāho, yaṁ camhi kāyena saṁvuto vācāya saṁvuto manasā saṁvuto, yañca kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjissāmī’ti.

Với vị ấy, hân hoan sanh khởi;
Tassa pāmojjaṁ jāyati.

do hân hoan, hỷ sanh khởi;
Pamuditassa pīti jāyati.

do hỷ, thân được khinh an;
Pītimanassa kāyo passambhati.

do thân khinh an, lạc thọ được cảm giác;
Passaddhakāyo sukhaṁ vedayati.

với người cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Sukhino cittaṁ samādhiyati.

Này Thôn trưởng, đây là pháp Thiền định.
Ayaṁ kho, gāmaṇi, dhammasamādhi.

Ở đây, nếu Ông được tâm định như vậy, sự phân vân của Ông được đoạn diệt.
Tatra ce tvaṁ cittasamādhiṁ paṭilabheyyāsi, evaṁ tvaṁ imaṁ kaṅkhādhammaṁ pajaheyyāsi.

Vị Thánh đệ tử ấy, này Thôn trưởng, với lòng tham được từ bỏ như vậy, với lòng sân được từ bỏ như vậy, không có lòng si, sống tỉnh giác, chánh niệm, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy, phương thứ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư; như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân.
Sa kho so, gāmaṇi, ariyasāvako evaṁ vigatābhijjho vigatabyāpādo asammūḷho sampajāno paṭissato mettāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharati, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ, iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.

Vị ấy suy tư như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
‘yvāyaṁ satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

“Tự mình làm hay khiến người làm, chém giết, hay tự mình chém giết, đốt nấu, hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn, hay khiến người gây phiền muộn, gây ảo não, hay khiến người gây ảo não, tự mình gây sợ hãi, hay khiến người gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo.
“karoto kārayato, chindato chedāpayato, pacato pācāpayato, socayato socāpayato, kilamato kilamāpayato, phandato phandāpayato, pāṇamatipātayato, adinnaṁ ādiyato, sandhiṁ chindato, nillopaṁ harato, ekāgārikaṁ karoto, paripanthe tiṭṭhato, paradāraṁ gacchato, musā bhaṇato, karoto karīyati pāpaṁ.

Hành động như vậy có tội ác, có đi đến tội ác. Nếu lấy một bánh xe sắc bén, giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành một chồng thịt; vì vậy có tội ác, có đi đến tội ác.
Khurapariyantena cepi cakkena yo imissā pathaviyā pāṇe ekaṁ maṁsakhalaṁ ekaṁ maṁsapuñjaṁ kareyya, atthi tatonidānaṁ pāpaṁ, atthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi đến bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, có tội ác; do duyên như vậy, có đi đến tội ác.
Dakkhiṇañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya hananto ghātento chindanto chedāpento pacanto pācāpento, atthi tatonidānaṁ pāpaṁ, atthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ; do duyên như vậy, có công đức, có đi đến công đức.
Uttarañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya dadanto dāpento, yajanto yajāpento, atthi tatonidānaṁ puññaṁ, atthi puññassa āgamo.

Bố thí, tự chế, thu thúc và chơn thật có công đức, đi đến công đức.”(*)
Dānena damena saṁyamena saccavajjena atthi puññaṁ atthi puññassa āgamo”ti.

Nếu vị Tôn giả Ðạo sư này nói đúng sự thật, ta cũng không có tội lỗi gì. Vì ta không có hại một ai, kẻ yếu hay kẻ mạnh?
Sace tassa bhoto satthuno saccaṁ vacanaṁ, apaṇṇakatāya mayhaṁ, yvāhaṁ na kiñci byābādhemi tasaṁ vā thāvaraṁ vā?

Ở đây cả hai phương diện, ta là kẻ gieo quẻ gặp may. Thân ta được hộ trì, lời nói được hộ trì, ý được hộ trì. Và sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.’
Ubhayamettha kaṭaggāho, yaṁ camhi kāyena saṁvuto vācāya saṁvuto manasā saṁvuto, yañca kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjissāmī’ti.

Với vị ấy, hân hoan sanh khởi;
Tassa pāmojjaṁ jāyati.

do hân hoan, hỷ sanh khởi;
Pamuditassa pīti jāyati.

do hỷ, thân được khinh an;
Pītimanassa kāyo passambhati.

do thân khinh an, lạc thọ được cảm giác;
Passaddhakāyo sukhaṁ vedayati.

với người cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Sukhino cittaṁ samādhiyati.

Này Thôn trưởng, đây là pháp Thiền định.
Ayaṁ kho, gāmaṇi, dhammasamādhi.

Ở đây, nếu Ông được tâm định như vậy, sự phân vân của Ông được đoạn diệt.
Tatra ce tvaṁ cittasamādhiṁ paṭilabheyyāsi, evaṁ tvaṁ imaṁ kaṅkhādhammaṁ pajaheyyāsi.

Vị Thánh đệ tử ấy, này Thôn trưởng, với lòng tham từ bỏ như vậy, với lòng sân từ bỏ như vậy, không có lòng si, tỉnh giác, chánh niệm, sống biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi; cũng vậy, phương từ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư; như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú với tâm câu hữu với bi, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Sa kho so, gāmaṇi, ariyasāvako evaṁ vigatābhijjho vigatabyāpādo asammūḷho sampajāno paṭissato karuṇāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharati …pe…

sống biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ …
muditāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharati …pe….

Vị Thánh đệ tử ấy, này Thôn trưởng, với lòng tham từ bỏ như vậy, với lòng sân từ bỏ như vậy, không có lòng si, tỉnh giác, chánh niệm, sống biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả; cũng vậy, phương từ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư; như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Sa kho so, gāmaṇi, ariyasāvako evaṁ vigatābhijjho vigatabyāpādo asammūḷho sampajāno paṭissato upekkhāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharati, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ, iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.

Vị ấy suy tư như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
‘yvāyaṁ satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

“Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời sau, không có cha, không có mẹ, không có loại hóa sanh; ở đời, không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng chánh hạnh, đã tự mình chứng tri, chứng ngộ đời này đời khác, và truyền dạy lại”.
“natthi dinnaṁ, natthi yiṭṭhaṁ, natthi hutaṁ natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko, natthi ayaṁ loko natthi paro loko, natthi mātā natthi pitā natthi sattā opapātikā, natthi loke samaṇabrāhmaṇā sammaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṁ parañca lokaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedentī”ti.

Nếu vị Tôn giả Ðạo sư này nói đúng sự thật, ta cũng không có tội lỗi gì. Vì ta không có hại một ai, kẻ yếu hay kẻ mạnh?
Sace tassa bhoto satthuno saccaṁ vacanaṁ, apaṇṇakatāya mayhaṁ, yvāhaṁ na kiñci byābādhemi tasaṁ vā thāvaraṁ vā?

Ở đây cả hai phương diện, ta là kẻ gieo quẻ gặp may. Thân ta được hộ trì, lời nói được hộ trì, ý được hộ trì. Và sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.’
Ubhayamettha kaṭaggāho, yaṁ camhi kāyena saṁvuto vācāya saṁvuto manasā saṁvuto, yañca kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjissāmī’ti.

Với vị ấy, hân hoan sanh khởi;
Tassa pāmojjaṁ jāyati.

do hân hoan, hỷ sanh khởi;
Pamuditassa pīti jāyati.

do hỷ, thân được khinh an;
Pītimanassa kāyo passambhati.

do thân khinh an, lạc thọ được cảm giác;
Passaddhakāyo sukhaṁ vedayati.

với người cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Sukhino cittaṁ samādhiyati.

Này Thôn trưởng, đây là pháp Thiền định.
Ayaṁ kho, gāmaṇi, dhammasamādhi.

Ở đây, nếu Ông được tâm định như vậy, sự phân vân của Ông được đoạn diệt.
Tatra ce tvaṁ cittasamādhiṁ paṭilabheyyāsi, evaṁ tvaṁ imaṁ kaṅkhādhammaṁ pajaheyyāsi.

Vị Thánh đệ tử ấy, này Thôn trưởng, với lòng tham từ bỏ như vậy, với lòng sân từ bỏ như vậy, không có lòng si, tỉnh giác, chánh niệm, sống biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả; cũng vậy, phương từ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư; như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Sa kho so, gāmaṇi, ariyasāvako evaṁ vigatābhijjho vigatabyāpādo asammūḷho sampajāno paṭissato upekkhāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharati, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ, iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.

Vị ấy suy tư như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
‘yvāyaṁ satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

“Có bố thí, có lễ hy sinh, có tế tự, có quả dị thục các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời sau, có cha, có mẹ, có loại hóa sanh ; ở đời, có những vị Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri, chứng ngộ đời này đời khác, và truyền dạy lại”.
“atthi dinnaṁ, atthi yiṭṭhaṁ, atthi hutaṁ, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko, atthi ayaṁ loko atthi paro loko, atthi mātā atthi pitā atthi sattā opapātikā, atthi loke samaṇabrāhmaṇā sammaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṁ parañca lokaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedentī”ti.

Nếu vị Tôn giả Ðạo sư này nói đúng sự thật, ta cũng không có tội lỗi gì. Vì ta không có hại một ai, kẻ yếu hay kẻ mạnh?
Sace tassa bhoto satthuno saccaṁ vacanaṁ, apaṇṇakatāya mayhaṁ, yvāhaṁ na kiñci byābādhemi tasaṁ vā thāvaraṁ vā?

Ở đây cả hai phương diện, ta là kẻ gieo quẻ gặp may. Thân ta được hộ trì, lời nói được hộ trì, ý được hộ trì. Và sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.’
Ubhayamettha kaṭaggāho, yaṁ camhi kāyena saṁvuto vācāya saṁvuto manasā saṁvuto, yañca kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjissāmī’ti.

Với vị ấy, hân hoan sanh khởi;
Tassa pāmojjaṁ jāyati.

do hân hoan, hỷ sanh khởi;
Pamuditassa pīti jāyati.

do hỷ, thân được khinh an;
Pītimanassa kāyo passambhati.

do thân khinh an, lạc thọ được cảm giác;
Passaddhakāyo sukhaṁ vedayati.

với người cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Sukhino cittaṁ samādhiyati.

Này Thôn trưởng, đây là pháp Thiền định.
Ayaṁ kho, gāmaṇi, dhammasamādhi.

Ở đây, nếu Ông được tâm định như vậy, sự phân vân của Ông được đoạn diệt.
Tatra ce tvaṁ cittasamādhiṁ paṭilabheyyāsi, evaṁ tvaṁ imaṁ kaṅkhādhammaṁ pajaheyyāsi.

Vị Thánh đệ tử ấy, này Thôn trưởng, với lòng tham từ bỏ như vậy, với lòng sân từ bỏ như vậy, không có lòng si, tỉnh giác, chánh niệm, sống biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả; cũng vậy, phương từ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư; như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Sa kho so, gāmaṇi, ariyasāvako evaṁ vigatābhijjho vigatabyāpādo asammūḷho sampajāno paṭissato upekkhāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharati, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ, iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.

Vị ấy suy tư như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
‘yvāyaṁ satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

“Tự làm, hay khiến người làm, chém giết, hay tự mình chém giết, đốt nấu, hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn, hay khiến người gây phiền muộn, gây ảo não, hay khiến người gây ảo não, tự mình gây sợ hãi, hay khiến người gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo.
“karoto kārayato, chedato chedāpayato, pacato pācāpayato, socayato socāpayato, kilamato kilamāpayato, phandato phandāpayato, pāṇamatipātayato, adinnaṁ ādiyato, sandhiṁ chindato, nillopaṁ harato, ekāgārikaṁ karoto, paripanthe tiṭṭhato, paradāraṁ gacchato, musā bhaṇato, karoto na karīyati pāpaṁ.

Do duyên như vậy, không có tội ác, không có đi đến tội ác. Nếu lấy một bánh xe sắc bén, giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành một chồng thịt; do duyên ấy, cũng không có tội ác, không đi đến tội ác.
Khurapariyantena cepi cakkena yo imissā pathaviyā pāṇe ekaṁ maṁsakhalaṁ ekaṁ maṁsapuñjaṁ kareyya, natthi tatonidānaṁ pāpaṁ, natthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu; do duyên ấy cũng không có tội ác, không đi đến tội ác.
Dakkhiṇañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya hananto ghātento chindanto chedāpento pacanto pācāpento, natthi tatonidānaṁ pāpaṁ, natthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ; do duyên ấy, không có công đức, không đi đến công đức.
Uttarañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya dadanto dāpento, yajanto yajāpento, natthi tatonidānaṁ puññaṁ, natthi puññassa āgamo.

Bố thí, tự chế, thu thúc và chơn thật cũng không có công đức, không đi đến công đức”.(*)
Dānena damena saṁyamena saccavajjena natthi puññaṁ, natthi puññassa āgamo”ti.

Nếu vị Tôn giả Ðạo sư này nói đúng sự thật, ta cũng không có tội lỗi gì. Vì ta không có hại một ai, kẻ yếu hay kẻ mạnh?
Sace tassa bhoto satthuno saccaṁ vacanaṁ, apaṇṇakatāya mayhaṁ, yvāhaṁ na kiñci byābādhemi tasaṁ vā thāvaraṁ vā?

Ở đây cả hai phương diện, ta là kẻ gieo quẻ gặp may. Thân ta được hộ trì, lời nói được hộ trì, ý được hộ trì. Và sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này’.
Ubhayamettha kaṭaggāho, yaṁ camhi kāyena saṁvuto vācāya saṁvuto manasā saṁvuto, yañca kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjissāmī’ti.

Với vị ấy, hân hoan sanh khởi;
Tassa pāmojjaṁ jāyati.

do hân hoan, hỷ sanh khởi;
Pamuditassa pīti jāyati.

do hỷ, thân được khinh an;
Pītimanassa kāyo passambhati.

do thân khinh an, lạc thọ được cảm giác;
Passaddhakāyo sukhaṁ vedayati.

với người cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Sukhino cittaṁ samādhiyati.

Này Thôn trưởng, đây là pháp Thiền định.
Ayaṁ kho, gāmaṇi, dhammasamādhi.

Ở đây, nếu Ông được tâm định như vậy, sự phân vân của Ông được đoạn diệt.
Tatra ce tvaṁ cittasamādhiṁ paṭilabheyyāsi, evaṁ tvaṁ imaṁ kaṅkhādhammaṁ pajaheyyāsi.

Vị Thánh đệ tử ấy, này Thôn trưởng, với lòng tham từ bỏ như vậy, với lòng sân từ bỏ như vậy, không có lòng si, tỉnh giác, chánh niệm, sống biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả; cũng vậy, phương từ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư; như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên giới. Vị ấy an trú với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Sa kho so, gāmaṇi, ariyasāvako evaṁ vigatābhijjho vigatabyāpādo asammūḷho sampajāno paṭissato upekkhāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharati, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ, iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.

Vị ấy suy tư như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau:
‘yvāyaṁ satthā evaṁvādī evaṁdiṭṭhi:

“Tự mình làm hay khiến người làm, chém giết, hay tự mình chém giết, đốt nấu, hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn, hay khiến người gây phiền muộn, gây ảo não, hay khiến người gây ảo não, tự mình gây sợ hãi, hay khiến người gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo.
“karoto kārayato, chindato chedāpayato, pacato pācāpayato, socayato socāpayato, kilamato kilamāpayato, phandato phandāpayato, pāṇamatipātayato, adinnaṁ ādiyato, sandhiṁ chindato, nillopaṁ harato, ekāgārikaṁ karoto, paripanthe tiṭṭhato, paradāraṁ gacchato, musā bhaṇato, karoto karīyati pāpaṁ.

Hành động như vậy có tội ác, có đi đến tội ác. Nếu lấy một bánh xe sắc bén, giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành một chồng thịt; vì vậy có tội ác, có đi đến tội ác.
Khurapariyantena cepi cakkena yo imissā pathaviyā pāṇe ekaṁ maṁsakhalaṁ ekaṁ maṁsapuñjaṁ kareyya, atthi tatonidānaṁ pāpaṁ, atthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi đến bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, có tội ác; do duyên như vậy, có đi đến tội ác.
Dakkhiṇañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya hananto ghātento chindanto chedāpento pacanto pācāpento, atthi tatonidānaṁ pāpaṁ, atthi pāpassa āgamo.

Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ; do duyên như vậy, có công đức, có đi đến công đức.
Uttarañcepi gaṅgāya tīraṁ gaccheyya dadanto dāpento, yajanto yajāpento, atthi tatonidānaṁ puññaṁ, atthi puññassa āgamo.

Bố thí, tự chế, thu thúc và chơn thật có công đức, đi đến công đức.’(*)
Dānena damena saṁyamena saccavajjena atthi puññaṁ, atthi puññassa āgamo”ti.

‘Nếu vị Tôn giả Ðạo sư này nói đúng sự thật, ta cũng không có tội lỗi gì. Vì ta không có hại một ai, kẻ yếu hay kẻ mạnh?
Sace tassa bhoto satthuno saccaṁ vacanaṁ, apaṇṇakatāya mayhaṁ, yvāhaṁ na kiñci byābādhemi tasaṁ vā thāvaraṁ vā?

Ở đây, cả hai phương diện, ta là kẻ gieo quẻ gặp may. Thân ta được hộ trì. Lời nói ta được hộ trì. Ý ta được hộ trì. Và sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.’
Ubhayamettha kaṭaggāho, yaṁ camhi kāyena saṁvuto vācāya saṁvuto manasā saṁvuto, yañca kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjissāmī’ti.

Với vị ấy, hân hoan sanh khởi;
Tassa pāmojjaṁ jāyati.

do hân hoan, hỷ sanh khởi;
Pamuditassa pīti jāyati.

do hỷ, thân được khinh an;
Pītimanassa kāyo passambhati.

do thân khinh an, lạc thọ được cảm giác;
Passaddhakāyo sukhaṁ vedayati.

với người cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Sukhino cittaṁ samādhiyati.

Này Thôn trưởng, đây là pháp Thiền định.
Ayaṁ kho, gāmaṇi, dhammasamādhi.

Ở đây, nếu Ông được tâm định như vậy, sự phân vân của Ông được đoạn diệt”.
Tatra ce tvaṁ cittasamādhiṁ paṭilabheyyāsi, evaṁ tvaṁ imaṁ kaṅkhādhammaṁ pajaheyyāsi”.

Khi được nói vậy, thôn trưởng Pāṭaliya bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, pāṭaliyo gāmaṇi bhagavantaṁ etadavoca:

“Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn, thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! …
“abhikkantaṁ, bhante, abhikkantaṁ, bhante …pe…

Từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”
ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gatan”ti.

Terasamaṁ.

Gāmaṇivaggo paṭhamo.

Tassuddānaṁ

Caṇḍo puṭo yodhājīvo,
Hatthasso asibandhako;
Desanā saṅkhakulaṁ maṇicūḷaṁ,
Bhadrarāsiyapāṭalīti.

Dứt Tương Ưng Pāṭaliya.
Gāmaṇisaṁyuttaṁ samattaṁ.