WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 42.2 Tālapuṭa

Kinh Tương Ưng 42.2
Saṁyutta Nikāya 42.2

1. Phẩm Thôn Trưởng
1. Gāmaṇivagga

Tālapuṭa
Tālapuṭasutta

Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.

Rồi Tālapuṭa, nhà vũ kịch sư, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho tālapuṭo naṭagāmaṇi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi.

Ngồi một bên, vũ kịch sư Tālapuṭa bạch Thế Tôn:
Ekamantaṁ nisinno kho tālapuṭo naṭagāmaṇi bhagavantaṁ etadavoca:

“Con được nghe, bạch Thế Tôn, các vị Ðạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng:
“sutaṁ metaṁ, bhante, pubbakānaṁ ācariyapācariyānaṁ naṭānaṁ bhāsamānānaṁ:

‘Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cọng trú với chư Thiên hay cười’.
‘yo so naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe saccālikena janaṁ hāseti rameti, so kāyassa bhedā paraṁ maraṇā pahāsānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajjatī’ti.

Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?”
Idha bhagavā kimāhā”ti?

“Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này”.
“Alaṁ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṁ. Mā maṁ etaṁ pucchī”ti.

Lần thứ hai, vũ kịch sư Tālapuṭa bạch Thế Tôn:
Dutiyampi kho tālapuṭo naṭagāmaṇi bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, con có nghe các vị Ðạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng:
“sutaṁ metaṁ, bhante, pubbakānaṁ ācariyapācariyānaṁ naṭānaṁ bhāsamānānaṁ:

‘Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cọng trú với chư Thiên hay cười’.
‘yo so naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe saccālikena janaṁ hāseti rameti, so kāyassa bhedā paraṁ maraṇā pahāsānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajjatī’ti.

Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?”
Idha bhagavā kimāhā”ti?

“Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này”.
“Alaṁ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṁ. Mā maṁ etaṁ pucchī”ti.

Lần thứ ba, vũ kịch sư Tālapuṭa bạch Thế Tôn:
Tatiyampi kho tālapuṭo naṭagāmaṇi bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, con có nghe các vị Ðạo sư, các vị Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng:
“sutaṁ metaṁ, bhante, pubbakānaṁ ācariyapācariyānaṁ naṭānaṁ bhāsamānānaṁ:

‘Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười’.
‘yo so naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe saccālikena janaṁ hāseti rameti, so kāyassa bhedā paraṁ maraṇā pahāsānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajjatī’ti.

Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?”
Idha bhagavā kimāhā”ti?

“Thật sự, Ta đã không chấp nhận và nói rằng:
“Addhā kho tyāhaṁ, gāmaṇi, na labhāmi:

‘Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này’.
‘alaṁ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṁ, mā maṁ etaṁ pucchī’ti.

Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông.
Api ca tyāhaṁ byākarissāmi.

Này Thôn trưởng, đối với những loài hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng tham, còn bị lòng tham trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường, tập trung những pháp hấp dẫn, thời khiến lòng tham của họ càng tăng thịnh.
Pubbe kho, gāmaṇi, sattā avītarāgā rāgabandhanabaddhā. Tesaṁ naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe ye dhammā rajanīyā te upasaṁharati bhiyyoso mattāya.

Này Thôn trưởng, đối với những loại hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng sân, còn bị lòng sân trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường tập trung những pháp liên hệ đến sân, thời khiến cho lòng sân của họ càng tăng thịnh.
Pubbe kho, gāmaṇi, sattā avītadosā dosabandhanabaddhā. Tesaṁ naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe ye dhammā dosanīyā te upasaṁharati bhiyyoso mattāya.

Này Thôn trưởng, đối với loài hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng si, còn bị lòng si trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường tập trung những pháp liên hệ đến si, thời khiến cho lòng si của họ càng tăng thịnh.
Pubbe kho, gāmaṇi, sattā avītamohā mohabandhanabaddhā. Tesaṁ naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe ye dhammā mohanīyā te upasaṁharati bhiyyoso mattāya.

Người ấy tự mình đắm say, phóng dật, làm người khác đắm say và phóng dật, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh trong địa ngục Hý tiếu.
So attanā matto pamatto pare madetvā pamādetvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā pahāso nāma nirayo tattha upapajjati.

Nếu người ấy có (tà) kiến như sau:
Sace kho panassa evaṁdiṭṭhi hoti:

‘Người vũ kịch nào, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười’.
‘yo so naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe saccālikena janaṁ hāseti rameti, so kāyassa bhedā paraṁ maraṇā pahāsānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajjatī’ti,

Như vậy là tà kiến.
sāssa hoti micchādiṭṭhi.

Ai rơi vào tà kiến, này Thôn trưởng, Ta nói rằng người ấy chỉ có một trong hai sanh thú: một là địa ngục, hai là súc sanh”.
Micchādiṭṭhikassa kho panāhaṁ, gāmaṇi, purisapuggalassa dvinnaṁ gatīnaṁ aññataraṁ gatiṁ vadāmi— nirayaṁ vā tiracchānayoniṁ vā”ti.

Khi được nói vậy, vũ kịch sư Tālapuṭa phát khóc và rơi nước mắt.
Evaṁ vutte, tālapuṭo naṭagāmaṇi parodi assūni pavattesi.

“Chính vì vậy, này Thôn trưởng, Ta đã không chấp nhận và nói:
“Etaṁ kho tyāhaṁ, gāmaṇi, nālatthaṁ:

‘Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này’.”
‘alaṁ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṁ; mā maṁ etaṁ pucchī’”ti.

“Bạch Thế Tôn, con khóc không phải vì Thế Tôn đã nói như vậy.
“Nāhaṁ, bhante, etaṁ rodāmi yaṁ maṁ bhagavā evamāha;

Nhưng, bạch Thế Tôn, vì con đã bị các Ðạo sư, các Tổ sư vũ kịch thời trước đã lâu ngày lừa dối con, dối trá con, dắt dẫn lầm lạc con rằng:
api cāhaṁ, bhante, pubbakehi ācariyapācariyehi naṭehi dīgharattaṁ nikato vañcito paluddho:

‘Người vũ kịch nào trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên hay cười’.”
‘yo so naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe saccālikena janaṁ hāseti rameti so kāyassa bhedā paraṁ maraṇā pahāsānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajjatī’”ti.

“Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn!
“Abhikkantaṁ, bhante, abhikkantaṁ, bhante.

Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai ‘có mắt có thể thấy sắc’.
Seyyathāpi, bhante, nikkujjitaṁ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṁ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṁ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṁ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti;

Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
evamevaṁ bhagavatā anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Bạch Thế Tôn, con nay xin quy y Phật, Pháp và chúng Tăng. Mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới!”
Esāhaṁ, bhante, bhagavantaṁ saraṇaṁ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Labheyyāhaṁ, bhante, bhagavato santike pabbajjaṁ, labheyyaṁ upasampadan”ti.

Vũ kịch sư Tālapuṭa được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới.
Alattha kho tālapuṭo naṭagāmaṇi bhagavato santike pabbajjaṁ, alattha upasampadaṁ.

Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Tālapuṭa … trở thành một vị A-la-hán nữa.
Acirūpasampanno ca panāyasmā tālapuṭo …pe… arahataṁ ahosīti.

Dutiyaṁ.