WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 42.9 Gia Tộc

Kinh Tương Ưng 42.9
Saṁyutta Nikāya 42.9

1. Phẩm Thôn Trưởng
1. Gāmaṇivagga

Gia Tộc
Kulasutta

Một thời Thế Tôn du hành ở giữa dân tộc Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đi đến Nāḷandā. Tại đây, Thế Tôn trú ở Nāḷandā, tại rừng Xoài của Pāvārika.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā kosalesu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ yena nāḷandā tadavasari. Tatra sudaṁ bhagavā nāḷandāyaṁ viharati pāvārikambavane.

Lúc bấy giờ, Nāḷandā đang bị đói kém, khó để lo miệng sống, xương trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ.
Tena kho pana samayena nāḷandā dubbhikkhā hoti dvīhitikā setaṭṭhikā salākāvuttā.

Lúc bấy giờ Nigaṇṭha Nāṭaputta sống ở Nāḷandā với đại chúng Nigantha.
Tena kho pana samayena nigaṇṭho nāṭaputto nāḷandāyaṁ paṭivasati mahatiyā nigaṇṭhaparisāya saddhiṁ.

Rồi con trai của thôn trưởng Asibandhaka, đệ tử của Nigaṇṭha Nāṭaputta, đi đến Nigaṇṭha Nāṭaputta; sau khi đến đảnh lễ Nigaṇṭha Nāṭaputta rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho asibandhakaputto gāmaṇi nigaṇṭhasāvako yena nigaṇṭho nāṭaputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā nigaṇṭhaṁ nāṭaputtaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi.

Nigaṇṭha Nāṭaputta nói với con trai của thôn trưởng Asibandhaka đang ngồi một bên:
Ekamantaṁ nisinnaṁ kho asibandhakaputtaṁ gāmaṇiṁ nigaṇṭho nāṭaputto etadavoca:

“Hãy đến, này Thôn trưởng, hãy đến cật vấn Sa-môn Gotama.
“ehi tvaṁ, gāmaṇi, samaṇassa gotamassa vādaṁ āropehi.

Như vậy, tiếng đồn tốt đẹp sẽ được lan khắp về Ông:
Evaṁ te kalyāṇo kittisaddo abbhuggacchissati:

‘Sa-môn Gotama, một vị có thần lực như vậy, có uy lực như vậy, đã bị con trai của thôn trưởng Asibandhaka cật vấn!’”
‘asibandhakaputtena gāmaṇinā samaṇassa gotamassa evaṁmahiddhikassa evaṁmahānubhāvassa vādo āropito’”ti.

“Thưa Tôn giả, làm thế nào con có thể cật vấn Sa-môn Gotama, một vị có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy?”
“Kathaṁ panāhaṁ, bhante, samaṇassa gotamassa evaṁmahiddhikassa evaṁmahānubhāvassa vādaṁ āropessāmī”ti?

“Hãy đến, này Thôn trưởng, hãy đến Sa-môn Gotama; sau khi đến, nói với Sa-môn Gotama như sau:
“Ehi tvaṁ, gāmaṇi, yena samaṇo gotamo tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā samaṇaṁ gotamaṁ evaṁ vadehi:

‘Bạch Thế Tôn, có phải Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán bảo vệ các gia đình, tán thán từ mẫn với các gia đình?’
‘nanu, bhante, bhagavā anekapariyāyena kulānaṁ anuddayaṁ vaṇṇeti, anurakkhaṁ vaṇṇeti, anukampaṁ vaṇṇetī’ti?

Này Thôn trưởng, được hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như sau:
Sace kho, gāmaṇi, samaṇo gotamo evaṁ puṭṭho evaṁ byākaroti:

‘Ðúng như vậy, này Thôn trưởng, Như Lai dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn’.
‘evaṁ, gāmaṇi, tathāgato anekapariyāyena kulānaṁ anuddayaṁ vaṇṇeti, anurakkhaṁ vaṇṇeti, anukampaṁ vaṇṇetī’ti,

Thời ông hỏi Sa-môn Gotama:
tamenaṁ tvaṁ evaṁ vadeyyāsi:

‘Vậy vì sao, bạch Thế Tôn, Thế Tôn cùng đại chúng Tỷ-kheo lại du hành tại Nāḷandā đói kém, khó để lo miệng sống, xương trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ?
‘atha kiñcarahi, bhante, bhagavā dubbhikkhe dvīhitike setaṭṭhike salākāvutte mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ cārikaṁ carati?

Như vậy, Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành sự bất hạnh cho các gia đình, thực hành sự tổn hại cho các gia đình’.
Ucchedāya bhagavā kulānaṁ paṭipanno, anayāya bhagavā kulānaṁ paṭipanno, upaghātāya bhagavā kulānaṁ paṭipanno’ti.

Như vậy, này Thôn trưởng, bị ông hỏi với câu hỏi có hai đầu nhọn, Sa-môn Gotama không có thể nhổ ra, cũng như không có thể nuốt xuống”.
Imaṁ kho te, gāmaṇi, samaṇo gotamo ubhatokoṭikaṁ pañhaṁ puṭṭho neva sakkhati uggilituṁ, neva sakkhati ogilitun”ti.

“Thưa vâng, Tôn giả”. Con trai của thôn trưởng Asibandhaka vâng đáp Nigaṇṭha Nāṭaputta, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Nigaṇṭha Nāṭaputta, thân phía hữu hướng về người rồi đi đến Thế Tôn; sau khi đến, thôn trưởng đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
“Evaṁ, bhante”ti kho asibandhakaputto gāmaṇi nigaṇṭhassa nāṭaputtassa paṭissutvā uṭṭhāyāsanā nigaṇṭhaṁ nāṭaputtaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi.

Ngồi xuống một bên, con trai của thôn trưởng Asibandhaka bạch Thế Tôn:
Ekamantaṁ nisinno kho asibandhakaputto gāmaṇi bhagavantaṁ etadavoca:

“Có phải, bạch Thế Tôn, Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn?”
“Nanu, bhante, bhagavā anekapariyāyena kulānaṁ anuddayaṁ vaṇṇeti, anurakkhaṁ vaṇṇeti, anukampaṁ vaṇṇetī”ti?

“Ðúng vậy, này Thôn trưởng, Như Lai dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn”.
“Evaṁ, gāmaṇi, tathāgato anekapariyāyena kulānaṁ anuddayaṁ vaṇṇeti, anurakkhaṁ vaṇṇeti, anukampaṁ vaṇṇetī”ti.

“Vậy vì sao, bạch Thế Tôn, Thế Tôn cùng đại chúng Tỷ-kheo lại du hành tại Nāḷandā đói kém, khó để lo miệng sống, xương trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ?
“Atha kiñcarahi, bhante, bhagavā dubbhikkhe dvīhitike setaṭṭhike salākāvutte mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ cārikaṁ carati?

Như vậy, Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành bất hạnh cho các gia đình, thực hành tổn hại cho các gia đình”.
Ucchedāya bhagavā kulānaṁ paṭipanno, anayāya bhagavā kulānaṁ paṭipanno, upaghātāya bhagavā kulānaṁ paṭipanno”ti.

“Này Thôn trưởng, Ta nhớ từ chín mươi mốt kiếp về trước, Ta không hề biết đã có làm hại một gia đình cho đến một bữa cơm nấu cúng dường.
“Ito so, gāmaṇi, ekanavutikappe yamahaṁ anussarāmi, nābhijānāmi kiñci kulaṁ pakkabhikkhānuppadānamattena upahatapubbaṁ.

Các gia đình ấy đều rất giàu, tiền của nhiều, tài sản nhiều, vàng bạc nhiều, vật dụng nhiều, ngũ cốc nhiều. Tất cả tài sản ấy được thâu hoạch do bố thí, được thâu hoạch một cách chân thật, được thâu hoạch một cách tự chế.
Atha kho yāni tāni kulāni aḍḍhāni mahaddhanāni mahābhogāni pahūtajātarūparajatāni pahūtavittūpakaraṇāni pahūtadhanadhaññāni, sabbāni tāni dānasambhūtāni ceva saccasambhūtāni ca sāmaññasambhūtāni ca.

Này Thôn trưởng, có tám nhân, có tám duyên làm tổn hại các gia đình.
Aṭṭha kho, gāmaṇi, hetū, aṭṭha paccayā kulānaṁ upaghātāya.

Do quốc vương, các gia đình đi đến tổn hại. Hay do trộm cướp, các gia đình đi đến tổn hại. Hay do lửa, các gia đình đi đến tổn hại. Hay do nước, các gia đình đi đến tổn hại. Hay họ tìm không được tiền của dấu cất. Hay do biếng nhác, họ bỏ bê công việc. Hay trong gia đình khởi lên kẻ phá hoại gia đình, người ấy phân tán, phá hoại, làm tổn hại. Và vô thường là thứ tám.
Rājato vā kulāni upaghātaṁ gacchanti, corato vā kulāni upaghātaṁ gacchanti, aggito vā kulāni upaghātaṁ gacchanti, udakato vā kulāni upaghātaṁ gacchanti, nihitaṁ vā ṭhānā vigacchati, duppayuttā vā kammantā vipajjanti, kule vā kulaṅgāroti uppajjati, yo te bhoge vikirati vidhamati viddhaṁseti, aniccatāyeva aṭṭhamīti.

Này Thôn trưởng, chính tám nhân, tám duyên này làm tổn hại các gia đình.
Ime kho, gāmaṇi, aṭṭha hetū, aṭṭha paccayā kulānaṁ upaghātāya.

Này Thôn trưởng, vì rằng tám nhân này, tám duyên này có mặt, có hiện hữu, nếu ai nói về Ta như sau:
Imesu kho, gāmaṇi, aṭṭhasu hetūsu, aṭṭhasu paccayesu saṁvijjamānesu yo maṁ evaṁ vadeyya:

Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành bất hạnh cho các gia đình, thực hành tổn hại cho các gia đình’;
‘ucchedāya bhagavā kulānaṁ paṭipanno, anayāya bhagavā kulānaṁ paṭipanno, upaghātāya bhagavā kulānaṁ paṭipanno’ti,

thời này Thôn trưởng, nếu người ấy không bỏ lời nói ấy, không bỏ tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, chắc chắn người ấy sẽ bị ném vào địa ngục như vậy”.
taṁ, gāmaṇi, vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā yathābhataṁ nikkhitto evaṁ niraye”ti.

Khi được nói vậy, con trai của thôn trưởng Asibandhaka bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, asibandhakaputto gāmaṇi bhagavantaṁ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! … từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng”.
“abhikkantaṁ, bhante, abhikkantaṁ, bhante …pe… upāsakaṁ maṁ bhagavā dhāretu ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gatan”ti.

Navamaṁ.