WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

SN 44.2 Anurādha

Kinh Tương Ưng 44.2
Saṁyutta Nikāya 44.2

1. Phẩm Không Thuyết
1. Abyākatavagga

Anurādha
Anurādhasutta

Một thời Thế Tôn trú ở Vesālī, tại Ðại Lâm, ở Trùng Các giảng đường.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā vesāliyaṁ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṁ.

Lúc bấy giờ Tôn giả Anurādha đang ở một ngôi chòi trong rừng không xa Thế Tôn bao nhiêu.
Tena kho pana samayena āyasmā anurādho bhagavato avidūre araññakuṭikāyaṁ viharati.

Rồi rất nhiều du sĩ ngoại đạo đi đến Tôn giả Anurādha; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Anurādha những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
Atha kho sambahulā aññatitthiyā paribbājakā yenāyasmā anurādho tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā āyasmatā anurādhena saddhiṁ sammodiṁsu. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdiṁsu.

Ngồi một bên, các ngoại đạo du sĩ ấy thưa với Tôn giả Anurādha:
Ekamantaṁ nisinnā kho te aññatitthiyā paribbājakā āyasmantaṁ anurādhaṁ etadavocuṁ:

“Này Hiền giả Anurādha, Như Lai là bậc Thượng Nhân, là bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối thượng. Bậc Như Lai ấy đã được trình bày dưới bốn trường hợp:
“yo so, āvuso anurādha, tathāgato uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto, taṁ tathāgato imesu catūsu ṭhānesu paññāpayamāno paññāpeti:

‘Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’?”
‘hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā, ‘na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā”ti?

“Thưa chư Hiền, Như Lai ấy là bậc Thượng nhân, bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối thượng. Bậc Như Lai ấy được trình bày ngoài bốn trường hợp sau đây:
“Yo so, āvuso, tathāgato uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto, taṁ tathāgato aññatra imehi catūhi ṭhānehi paññāpayamāno paññāpeti:

‘Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’.”
‘hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā, ‘na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā, neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā”ti.

Khi được nghe nói vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Tôn giả Anurādha:
Evaṁ vutte, te aññatitthiyā paribbājakā āyasmantaṁ anurādhaṁ etadavocuṁ:

“Tỷ-kheo này có lẽ là mới tu, xuất gia không bao lâu. Hay nếu là vị trưởng lão, thời vị này là ngu si, không có thông minh”.
“so cāyaṁ bhikkhu navo bhavissati acirapabbajito, thero vā pana bālo abyatto”ti.

Các du sĩ ngoại đạo ấy, sau khi chê trách Tôn giả Anurādha là người mới tu và ngu si, liền từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Atha kho te aññatitthiyā paribbājakā āyasmantaṁ anurādhaṁ navavādena ca bālavādena ca apasādetvā uṭṭhāyāsanā pakkamiṁsu.

Rồi Tôn giả Anurādha, sau khi các du sĩ ngoại đạo ấy ra đi không bao lâu, liền suy nghĩ:
Atha kho āyasmato anurādhassa acirapakkantesu aññatitthiyesu paribbājakesu etadahosi:

“Nếu các du sĩ ngoại đạo ấy hỏi ta thêm câu hỏi nữa, ta phải trả lời như thế nào để câu ta trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy là đúng với lời Thế Tôn, ta không có xuyên tạc Thế tôn với điều không thật. Ta trả lời đúng pháp, thuận pháp, và những ai nói lời tương ứng đúng pháp, không có cơ hội để chỉ trích?”
“sace kho maṁ te aññatitthiyā paribbājakā uttariṁ puccheyyuṁ, kathaṁ byākaramāno nu khvāhaṁ tesaṁ aññatitthiyānaṁ paribbājakānaṁ vuttavādī ceva bhagavato assaṁ, na ca bhagavantaṁ abhūtena abbhācikkheyyaṁ, dhammassa cānudhammaṁ byākareyyaṁ, na ca koci sahadhammiko vādānuvādo gārayhaṁ ṭhānaṁ āgaccheyyā”ti?

Rồi Tôn giả Anurādha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Anurādha bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā anurādho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā anurādho bhagavantaṁ etadavoca:

“Ở đây, bạch Thế Tôn, con trú trong một ngôi chòi trong rừng, không xa Thế Tôn bao nhiêu.
“idhāhaṁ, bhante, bhagavato avidūre araññakuṭikāyaṁ viharāmi.

Rồi, bạch Thế Tôn, rất nhiều du sĩ ngoại đạo đi đến con, sau khi đến, nói lên với con những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với con:
Atha kho, bhante, sambahulā aññatitthiyā paribbājakā yenāhaṁ tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā mayā saddhiṁ sammodiṁsu. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinnā kho, bhante, te aññatitthiyā paribbājakā maṁ etadavocuṁ:

‘Này Hiền giả Anurādha, Như Lai là bậc Thượng nhân, là bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối thượng. Bậc Như Lai ấy đã được trình bày dưới bốn trường hợp:
‘yo so, āvuso anurādha, tathāgato uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto, taṁ tathāgato imesu catūsu ṭhānesu paññāpayamāno paññāpeti:

“Như Lai có tồn tại sau khi chết”. “Hay Như Lai không tồn tại sau khi chết”. “Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết”. “Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”.’
“hoti tathāgato paraṁ maraṇā”ti vā …pe… “neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā”ti vā’ti?

Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, con nói với các du sĩ ngoại đạo ấy như sau:
Evaṁ vuttāhaṁ, bhante, te aññatitthiye paribbājake etadavocaṁ:

‘Thưa chư Hiền, Như Lai là bậc Thượng nhân, là bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối thắng. Bậc Như Lai ấy được trình bày ngoài bốn trường hợp như sau:
‘yo so, āvuso, tathāgato uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto, taṁ tathāgato aññatra imehi catūhi ṭhānehi paññāpayamāno paññāpeti:

“Như Lai có tồn tại sau khi chết”. “Hay Như Lai không tồn tại sau khi chết”. “Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết”. “Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”.’
“hoti tathāgato paraṁ maraṇā”ti vā …pe… “neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā”ti vā’ti.

Khi được nói vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với con:
Evaṁ vutte, bhante, te aññatitthiyā paribbājakā maṁ etadavocuṁ:

‘Tỷ-kheo này có lẽ là mới tu, xuất gia chưa bao lâu. Hay nếu là vị trưởng lão, thời vị này là ngu si, không có thông minh’.
‘so cāyaṁ bhikkhu navo bhavissati acirapabbajito thero vā pana bālo abyatto’ti.

Rồi bạch Thế Tôn, các du sĩ ngoại đạo ấy, sau khi chê trách con là người mới tu và ngu si, liền từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Atha kho maṁ, bhante, te aññatitthiyā paribbājakā navavādena ca bālavādena ca apasādetvā uṭṭhāyāsanā pakkamiṁsu.

Bạch Thế Tôn, khi các vị du sĩ ngoại đạo ấy đi không bao lâu con suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, bhante, acirapakkantesu tesu aññatitthiyesu paribbājakesu etadahosi:

‘Nếu các vị du sĩ ngoại đạo ấy hỏi ta thêm câu hỏi nữa, ta phải trả lời như thế nào để câu trả lời của ta cho các du sĩ ngoại đạo ấy là đúng với lời Thế Tôn, ta không có xuyên tạc Thế Tôn với điều không thật. Ta trả lời đúng pháp, thuận pháp và những ai nói lời tương ưng đúng pháp, không có cơ hội để chỉ trích’?”
‘sace kho maṁ te aññatitthiyā paribbājakā uttariṁ puccheyyuṁ, kathaṁ byākaramāno nu khvāhaṁ tesaṁ aññatitthiyānaṁ paribbājakānaṁ vuttavādī ceva bhagavato assaṁ, na ca bhagavantaṁ abhūtena abbhācikkheyyaṁ, dhammassa cānudhammaṁ byākareyyaṁ, na ca koci sahadhammiko vādānuvādo gārayhaṁ ṭhānaṁ āgaccheyyā’”ti?

“Ông nghĩ thế nào, này Anurādha, sắc là thường hay vô thường?”
“Taṁ kiṁ maññasi, anurādha, rūpaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn”.
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Thọ là thường hay vô thường?” … “Tưởng là thường hay vô thường?” … “Các hành là thường hay vô thường?” … “Thức là thường hay vô thường?”
“Vedanā niccā vā aniccā vā”ti? …pe… Saññā …pe… saṅkhārā …pe… “viññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn”.
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Do vậy, này Anurādha, phàm có sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ rằng: ‘Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải tự ngã của tôi’.
“Tasmātiha, anurādha, yaṁ kiñci rūpaṁ atītānāgatapaccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā hīnaṁ vā paṇītaṁ vā yaṁ dūre santike vā, sabbaṁ rūpaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ.

Phàm có thọ gì, quá khứ, vị lai, hiện tại … Phàm có tưởng gì … Phàm có các hành gì …
Yā kāci vedanā atītānāgatapaccuppannā …pe… yā kāci saññā …pe… ye keci saṅkhārā …pe…

Phàm có thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ rằng: ‘Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải tự ngã của tôi’.
yaṁ kiñci viññāṇaṁ atītānāgatapaccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā hīnaṁ vā paṇītaṁ vā yaṁ dūre santike vā, sabbaṁ viññāṇaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ.

Thấy vậy, này Anurādha, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối với các hành, nhàm chán đối với thức.
Evaṁ passaṁ, anurādha, sutavā ariyasāvako rūpasmimpi nibbindati, vedanāyapi nibbindati, saññāyapi nibbindati, saṅkhāresupi nibbindati, viññāṇasmimpi nibbindati.

Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí biết rằng: “Ta đã được giải thoát”.
Nibbindaṁ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṁ vimuttamiti ñāṇaṁ hoti.

Vị ấy biết rõ: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’.
‘Khīṇā jāti, vusitaṁ brahmacariyaṁ, kataṁ karaṇīyaṁ, nāparaṁ itthattāyā’ti pajānāti.

Ông nghĩ thế nào, này Anurādha, Ông có quán sắc là Như Lai không?”
Taṁ kiṁ maññasi, anurādha, rūpaṁ tathāgatoti samanupassasī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Ông có quán thọ là Như Lai không?”
“Vedanaṁ tathāgatoti samanupassasī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Ông có quán tưởng là Như Lai không?”
“Saññaṁ tathāgatoti samanupassasī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Ông có quán các hành là Như Lai không?”
“Saṅkhāre tathāgatoti samanupassasī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Ông có quán thức là Như Lai không?”
“Viññāṇaṁ tathāgatoti samanupassasī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Ông nghĩ thế nào, này Anurādha, Ông có quán Như Lai ở trong sắc không?”
“Taṁ kiṁ maññasi, anurādha, rūpasmiṁ tathāgatoti samanupassasī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Ông có quán Như Lai ở ngoài sắc không?”
“Aññatra rūpā tathāgatoti samanupassasī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Ông có quán Như Lai ở trong thọ không?” “Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“Vedanāya …pe…

“Ông có quán Như Lai ở ngoài thọ không?” “Thưa không, bạch Thế Tôn”.
… aññatra vedanāya …pe…

“Ông có quán Như Lai ở trong tưởng không?” “Thưa không, bạch Thế Tôn”.
… saññāya …pe…

“Ông có quán Như Lai ở ngoài tưởng không?” “Thưa không, bạch Thế Tôn”.
… aññatra saññāya …pe…

“Ông có quán Như Lai ở trong các hành không?” “Thưa không, bạch Thế Tôn”.
… saṅkhāresu …pe…

“Ông có quán Như Lai ở ngoài các hành không?” “Thưa không, bạch Thế Tôn”.
… aññatra saṅkhārehi …pe…

“Ông có quán Như Lai ở trong thức không?”
viññāṇasmiṁ tathāgatoti samanupassasī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Ông có quán Như Lai ở ngoài thức không?”
“Aññatra viññāṇā tathāgatoti samanupassasī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Ông nghĩ như thế nào, này Anurādha, Ông có quán Như Lai là sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay không?”
“Taṁ kiṁ maññasi, anurādha, rūpaṁ, vedanaṁ, saññaṁ, saṅkhāre, viññāṇaṁ tathāgatoti samanupassasī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Ông có quán Như Lai là không có sắc, không có thọ, không có tưởng, không có các hành, không có thức hay không?”
“Taṁ kiṁ maññasi, anurādha, ayaṁ so arūpī avedano asaññī asaṅkhāro aviññāṇo tathāgatoti samanupassasī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Ở đây, này Anurādha, Ông ngay trong hiện tại không có nắm được Như Lai một cách chân thật, một cách xác chứng, thời có hợp lý chăng khi Ông tuyên bố về Như Lai rằng:
“Ettha ca te, anurādha, diṭṭheva dhamme saccato thetato tathāgate anupalabbhiyamāne kallaṁ nu te taṁ veyyākaraṇaṁ—

Thưa chư Hiền, Như Lai là bậc Thượng nhân, là bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối thượng. Bậc Như Lai ấy được biết đến ngoài bốn trường hợp sau đây:
yo so, āvuso, tathāgato uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto, taṁ tathāgato aññatra imehi catūhi ṭhānehi paññāpayamāno paññāpeti:

‘Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’?”
‘hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā …pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Lành thay, lành thay! Này Anurādha. Trước đây và hiện nay, này Anurādha, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ”.
“Sādhu sādhu, anurādha. Pubbe cāhaṁ, anurādha, etarahi ca dukkhañceva paññāpemi dukkhassa ca nirodhan”ti.

Dutiyaṁ.