Kinh Tương Ưng 44.7
Saṁyutta Nikāya 44.7
1. Phẩm Không Thuyết
1. Abyākatavagga
Moggallāna
Moggallānasutta
Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Tôn giả Mahāmoggallāna; sau khi đến, nói với Tôn giả Mahāmoggallāna những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên.
Atha kho vacchagotto paribbājako yenāyasmā mahāmoggallāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahāmoggallānena saddhiṁ sammodi. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi.
Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta thưa với Tôn giả Mahāmoggallāna:
Ekamantaṁ nisinno kho vacchagotto paribbājako āyasmantaṁ mahāmoggallānaṁ etadavoca:
“Thưa Tôn giả Moggallāna, thế giới là thường còn?”
“Kiṁ nu kho, bho moggallāna, sassato loko”ti?
“Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: ‘Thế giới là thường còn’.”
“Abyākataṁ kho etaṁ, vaccha, bhagavatā: ‘sassato loko’”ti.
“Vậy thưa Tôn giả Moggallāna, thế giới là vô thường?”
“Kiṁ pana, bho moggallāna, asassato loko”ti?
“Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Thế giới là vô thường’.”
“Etampi kho, vaccha, abyākataṁ bhagavatā: ‘asassato loko’”ti.
“Thưa Tôn giả Moggallāna, có phải thế giới là hữu biên?”
“Kiṁ nu kho, bho moggallāna, antavā loko”ti?
“Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: ‘Thế giới là hữu biên’.”
“Abyākataṁ kho etaṁ, vaccha, bhagavatā: ‘antavā loko’”ti.
“Vậy thưa Tôn giả Moggallāna, thế giới là vô biên?”
“Kiṁ pana, bho moggallāna, anantavā loko”ti?
“Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Thế giới là vô biên’.”
“Etampi kho, vaccha, abyākataṁ bhagavatā: ‘anantavā loko’”ti.
“Thưa Tôn giả Moggallāna, có phải sinh mạng và thân thể là một?”
“Kiṁ nu kho, bho moggallāna, taṁ jīvaṁ taṁ sarīran”ti?
“Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: ‘Sinh mạng và thân thể là một’.”
“Abyākataṁ kho etaṁ, vaccha, bhagavatā: ‘taṁ jīvaṁ taṁ sarīran’”ti.
“Thưa Tôn giả Moggallāna, vậy sinh mạng và thân thể là khác?”
“Kiṁ pana, bho moggallāna, aññaṁ jīvaṁ aññaṁ sarīran”ti?
“Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Sinh mạng và thân thể là khác’.”
“Etampi kho, vaccha, abyākataṁ bhagavatā: ‘aññaṁ jīvaṁ aññaṁ sarīran’”ti.
“Thưa Tôn giả Moggallāna, có phải Như Lai có tồn tại sau khi chết?”
“Kiṁ nu kho, bho moggallāna, hoti tathāgato paraṁ maraṇā”ti?
“Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết’.”
“Abyākataṁ kho etaṁ, vaccha, bhagavatā: ‘hoti tathāgato paraṁ maraṇā’”ti.
“Thưa Tôn giả Moggallāna, vậy Như Lai không có tồn tại sau khi chết?”
“Kiṁ pana, bho moggallāna, na hoti tathāgato paraṁ maraṇā”ti?
“Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không có tồn tại sau khi chết’.”
“Etampi kho, vaccha, abyākataṁ bhagavatā: ‘na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’”ti.
“Thưa Tôn giả Moggallāna, vậy Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?”
“Kiṁ nu kho, bho moggallāna, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇā”ti?
“Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết’.”
“Abyākataṁ kho etaṁ, vaccha, bhagavatā: ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇā’”ti.
“Thưa Tôn giả Moggallāna, vậy Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?”
“Kiṁ pana, bho moggallāna, neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā”ti?
“Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’.”
“Etampi kho, vaccha, abyākataṁ bhagavatā: ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’”ti.
“Thưa Tôn giả Moggallāna, do nhân gì, do duyên gì các vị du sĩ ngoại đạo, khi được hỏi như thế này, thời trả lời như thế này:
“Ko nu kho, bho moggallāna, hetu ko paccayo, yena aññatitthiyānaṁ paribbājakānaṁ evaṁ puṭṭhānaṁ evaṁ veyyākaraṇaṁ hoti—
Thế giới là thường còn. Hay thế giới là vô thường. Hay thế giới là hữu biên. Hay thế giới là vô biên. Hay sinh mạng và thân thể là một. Hay sinh mạng và thân thể là khác. Hay Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
sassato lokoti vā, asassato lokoti vā, antavā lokoti vā, anantavā lokoti vā, taṁ jīvaṁ taṁ sarīranti vā, aññaṁ jīvaṁ aññaṁ sarīranti vā, hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, na hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā, neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā?
Thưa Tôn giả Moggallāna, do nhân gì, do duyên gì, Sa-môn Gotama, khi được hỏi như thế này, thời không trả lời như thế này:
Ko pana, bho moggallāna, hetu ko paccayo, yena samaṇassa gotamassa evaṁ puṭṭhassa na evaṁ veyyākaraṇaṁ hoti—
Thế giới là thường còn. Hay thế giới là vô thường. Hay thế giới là hữu biên. Hay thế giới là vô biên. Hay sinh mạng và thân thể là một. Hay sinh mạng và thân thể là khác. Hay Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?”
sassato lokotipi, asassato lokotipi, antavā lokotipi, anantavā lokotipi, taṁ jīvaṁ taṁ sarīrantipi, aññaṁ jīvaṁ aññaṁ sarīrantipi, hoti tathāgato paraṁ maraṇātipi, na hoti tathāgato paraṁ maraṇātipi, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇātipi, neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇātipī”ti?
“Này Vaccha, vì rằng các du sĩ ngoại đạo quán con mắt là: ‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’; …
“Aññatitthiyā kho, vaccha, paribbājakā cakkhuṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti …pe…
Này Vaccha, vì rằng các du sĩ ngoại đạo quán lưỡi là: ‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’;
… jivhaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti …pe…
Này Vaccha, vì rằng các du sĩ ngoại đạo quán ý là: ‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’;
… manaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti.
Do vậy, các du sĩ ngoại đạo, nên khi được hỏi như vậy, trả lời như vầy:
Tasmā aññatitthiyānaṁ paribbājakānaṁ evaṁ puṭṭhānaṁ evaṁ veyyākaraṇaṁ hoti—
Thế giới là thường còn … Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết.
sassato lokoti vā …pe… neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇāti vā.
Và Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, này Vaccha, quán con mắt là: ‘Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải tự ngã của tôi’.
Tathāgato ca kho, vaccha, arahaṁ sammāsambuddho cakkhuṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati
Và Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, này Vaccha, quán lưỡi là: ‘Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải tự ngã của tôi’.
…pe… jivhaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati
Và Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, này Vaccha, quán ý là: ‘Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải tự ngã của tôi’.
…pe… manaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Do vậy, Như Lai khi được hỏi như vậy, không có trả lời như vầy:
Tasmā tathāgatassa evaṁ puṭṭhassa na evaṁ veyyākaraṇaṁ hoti—
Thế giới là thường còn … Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”.
sassato lokotipi …pe… neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇātipī”ti.
Rồi du sĩ Vacchagotta từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến Thế Tôn; sau khi đi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên.
Atha kho vacchagotto paribbājako uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṁ sammodi. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi.
Ngồi một bên, Vacchagotta bạch Thế Tôn:
Ekamantaṁ nisinno kho vacchagotto paribbājako bhagavantaṁ etadavoca:
“Thưa Tôn giả Gotama, thế giới thường còn?”
“kiṁ nu kho, bho gotama, sassato loko”ti?
“Này Vaccha, Ta không trả lời: ‘Thế giới là thường còn’ …
“Abyākataṁ kho etaṁ, vaccha, mayā: ‘sassato loko’ti …pe….
“Thế là, bạch Thế Tôn, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?”
“Kiṁ pana, bho gotama, neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā”ti?
“Này Vaccha, Ta cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’.”
“Etampi kho, vaccha, abyākataṁ mayā: ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’”ti.
“Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì các vị du sĩ ngoại đạo, khi được hỏi như thế này, thời trả lời như thế này:
“Ko nu kho, bho gotama, hetu ko paccayo, yena aññatitthiyānaṁ paribbājakānaṁ evaṁ puṭṭhānaṁ evaṁ veyyākaraṇaṁ hoti:
‘Thế giới là thường còn’ … ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’.
‘sassato loko’ti vā …pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā?
Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, Tôn giả Gotama, khi được hỏi như thế này, thời không trả lời như thế này:
Ko pana, bho gotama, hetu ko paccayo, yena bhoto gotamassa evaṁ puṭṭhassa na evaṁ veyyākaraṇaṁ hoti:
‘Thế giới là thường còn’ … ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’.
‘sassato loko’tipi …pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’tipī”ti?
Này Vaccha, các du sĩ ngoại đạo quán con mắt là: ‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’,
“Aññatitthiyā kho, vaccha, paribbājakā cakkhuṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti.
… quán tai … quán mũi …
Này Vaccha, các du sĩ ngoại đạo quán lưỡi là: ‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’,
…pe… jivhaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti.
… quán thân …
Này Vaccha, các du sĩ ngoại đạo quán ý là: ‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’,
…pe… manaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti.
Do vậy, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, nên trả lời như vầy:
Tasmā aññatitthiyānaṁ paribbājakānaṁ evaṁ puṭṭhānaṁ evaṁ veyyākaraṇaṁ hoti:
‘Thế giới là thường còn’ … ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’.
‘sassato loko’ti vā …pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’ti vā.
Còn Như Lai, này Vaccha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, quán con mắt là: ‘Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải là tự ngã của tôi’,
Tathāgato ca kho, vaccha, arahaṁ sammāsambuddho cakkhuṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
… Tai … Mũi …
… quán lưỡi là: ‘Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải là tự ngã của tôi’,
…pe… jivhaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
… quán thân …
… quán ý là: ‘Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải là tự ngã của tôi’.
…pe… manaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Do vậy, Như Lai khi được hỏi như vậy, không trả lời như vầy:
Tasmā tathāgatassa evaṁ puṭṭhassa na evaṁ veyyākaraṇaṁ hoti:
‘Thế giới là thường còn’. ‘Hay thế giới là vô thường’. ‘Hay thế giới là hữu biên’. ‘Hay thế giới là vô biên’. ‘Hay sinh mạng và thân thể là một’. ‘Hay sinh mạng và thân thể là khác’. ‘Hay Như Lai có tồn tại sau khi chết’. ‘Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết’. ‘Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết’. ‘Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’?”
‘sassato loko’tipi, ‘asassato loko’tipi, ‘antavā loko’tipi, ‘anantavā loko’tipi, ‘taṁ jīvaṁ taṁ sarīran’tipi, ‘aññaṁ jīvaṁ aññaṁ sarīran’tipi, ‘hoti tathāgato paraṁ maraṇā’tipi, ‘na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’tipi, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇā’tipi, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā’tipī”ti.
“Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Gotama!
“Acchariyaṁ, bho gotama, abbhutaṁ, bho gotama.
Vì rằng giữa Ðạo sư với nam đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú.
Yatra hi nāma satthu ca sāvakassa ca atthena attho byañjanena byañjanaṁ saṁsandissati samessati na virodhayissati, yadidaṁ aggapadasmiṁ.
Thưa Tôn giả Gotama, nay con đi đến Sa-môn Mahāmoggallāna và nói về ý nghĩa này.
Idānāhaṁ, bho gotama, samaṇaṁ mahāmoggallānaṁ upasaṅkamitvā etamatthaṁ apucchiṁ.
Sa-môn Moggallāna, với những câu như thế này, với những lời như thế này đã trả lời về ý nghĩa này giống như Tôn giả Gotama.
Samaṇopi me moggallāno etehi padehi etehi byañjanehi tamatthaṁ byākāsi, seyyathāpi bhavaṁ gotamo.
Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Gotama!
Acchariyaṁ, bho gotama, abbhutaṁ, bho gotama.
Vì rằng giữa Ðạo sư với nam đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú”.
Yatra hi nāma satthu ca sāvakassa ca atthena attho byañjanena byañjanaṁ saṁsandissati samessati na virodhayissati, yadidaṁ aggapadasmin”ti.
Sattamaṁ.