Tạng Luật Theravāda
Theravāda Vinaya
Đại Phần
Mahāvibhaṅga
Chương Bất Cộng Trú (Trục Xuất)
Pārājikakaṇḍa
Bhikkhu Brahmali
Điều Học Thứ Nhất Về Tội Bất Cộng Trú
Paṭhamapārājikasikkhāpada
Tôi xin đem hết lòng thành kính làm lễ đến đức Bhagavā, ngài là bậc Arahaṃ cao thượng, được đắc quả Chánh Biến Tri.
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
Duyên sự xuất hiện Tạng Luật Tại Verañjā
Verañjakaṇḍa
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn ngự tại Verañjā, ở cội cây Nimba của Dạ-xoa Naḷeru, cùng với đại chúng tỳ khưu có 500 vị tỳ khưu.
Tena samayena buddho bhagavā verañjāyaṁ viharati naḷerupucimandamūle mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi.
Vị Bà-la-môn Verañja nghe rằng:
Assosi kho verañjo brāhmaṇo—
Sa-môn Gotama, dòng Sākya (Thích Ca), xuất thân từ dòng dõi Sākya, và đang ngự tại Verañjā, ở cội cây Nimba của dạ xoa Naḷeru cùng với đại chúng tỳ khưu 500 vị.
“samaṇo khalu bho gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito verañjāyaṁ viharati naḷerupucimandamūle mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi.
Thế Tôn Gotama có tiếng đồn tốt đẹp sau đây lan rộng:
Taṁ kho pana bhavantaṁ gotamaṁ evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato—
‘Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’
‘itipi so bhagavā arahaṁ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṁ buddho bhagavā’,
Vị ấy sau khi tự mình chứng ngộ thắng trí đã công bố về thế gian này bao gồm cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người.
so imaṁ lokaṁ sadevakaṁ samārakaṁ sabrahmakaṁ sassamaṇabrāhmaṇiṁ pajaṁ sadevamanussaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedeti,
Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn cuối, đầy đủ về ý nghĩa, đầy đủ về văn tự. Vị ấy giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Thật tốt lành thay khi được gặp các vị A-la-hán như thế ấy!”
so dhammaṁ deseti ādikalyāṇaṁ majjhekalyāṇaṁ pariyosānakalyāṇaṁ sātthaṁ sabyañjanaṁ; kevalaparipuṇṇaṁ parisuddhaṁ brahmacariyaṁ pakāseti; sādhu kho pana tathārūpānaṁ arahataṁ dassanaṁ hotī”ti.
Sau đó, Bà-la-môn Verañja đã đi đến gặp đức Thế Tôn. Sau khi đến, vị ấy nói lên những lời đón chào, chúc tụng thân hữu và xã giao với đức Thế Tôn và ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Verañja đã nói với đức Thế Tôn:
Atha kho verañjo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṁ sammodi. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho verañjo brāhmaṇo bhagavantaṁ etadavoca—
“Sa-môn Gotama, lời nói này chính tôi nghe được:
“sutaṁ metaṁ, bho gotama—
‘Sa-môn Gotama không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị Bà-la-môn già, cao niên, tôn quý hoặc tuổi thọ cao thâm.’
‘na samaṇo gotamo brāhmaṇe jiṇṇe vuḍḍhe mahallake addhagate vayoanuppatte abhivādeti vā paccuṭṭheti vā āsanena vā nimantetī’ti.
Sa Môn Gotama, Ngài có thật làm đúng như lời họ nói không? Sa môn Gotama không cung kính, hoặc không đứng dậy, hoặc không mời chỗ ngồi đến các vị Bà-la-môn già, cao niên, tôn quý hoặc tuổi thọ cao thâm?
Tayidaṁ, bho gotama, tatheva? Na hi bhavaṁ gotamo brāhmaṇe jiṇṇe vuḍḍhe mahallake addhagate vayoanuppatte abhivādeti vā paccuṭṭheti vā āsanena vā nimanteti?
Thưa Sa-môn Gotama, điều ấy thật không thích đáng!”
Tayidaṁ, bho gotama, na sampannamevā”ti.
“Này Bà-la-môn, ta không thấy ai trong thế gian bao gồm chư Thiên, Ma Vương, Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, và quyến thuộc của họ, Ta không thấy một ai mà Ta có thể cung kính, hoặc có thể đứng dậy, hoặc có thể mời chỗ ngồi.
“Nāhaṁ taṁ, brāhmaṇa, passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya yamahaṁ abhivādeyyaṁ vā paccuṭṭheyyaṁ vā āsanena vā nimanteyyaṁ.
Này Bà-la-môn, nếu Như Lai cung kính, hoặc đứng dậy, hoặc mời chỗ ngồi cho bất cứ người nào thì đầu của họ sẽ bị vỡ tan.”
Yañhi, brāhmaṇa, tathāgato abhivādeyya vā paccuṭṭheyya vā āsanena vā nimanteyya, muddhāpi tassa vipateyyā”ti.
“Sa môn Gotama không biết gì về phẩm vị!”
“Arasarūpo bhavaṁ gotamo”ti?
Này Bà-la-môn, có một pháp đúng đắn mà ông có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không biết gì về phẩm vị!”
“Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘arasarūpo samaṇo gotamo’ti.
Này Bà-la-môn, các phẩm vị về sắc, thinh, hương, vị, xúc, đối với Như Lai đã được dứt bỏ, cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, không có nhân để tồn tại, và không còn điều kiện để sanh khởi trong tương lai.
Ye te, brāhmaṇa, rūparasā saddarasā gandharasā rasarasā phoṭṭhabbarasā, te tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṁ anuppādadhammā.
Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn, mà với pháp môn ấy, có thể nói đúng đắn về ta rằng: ‘Sa-môn Gotama không biết về phẩm vị;’ và ông đã không nghĩ đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
Ayaṁ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘arasarūpo samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṁ tvaṁ sandhāya vadesī”ti.
“Sa-môn Gotama không biết thưởng thức!”
“Nibbhogo bhavaṁ gotamo”ti?
Này Bà-la-môn, có một pháp đúng đắn mà ông có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama không biết thưởng thức!”
“Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘nibbhogo samaṇo gotamo’ti.
Này Bà-la-môn, các thưởng thức về sắc, thinh, hương, vị, xúc, đối với Như Lai đã được dứt bỏ, cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, không có nhân để tồn tại, và không còn điều kiện để sanh khởi trong tương lai.
Ye te, brāhmaṇa, rūpabhogā saddabhogā gandhabhogā rasabhogā phoṭṭhabbabhogā, te tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṁ anuppādadhammā.
Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn, mà với pháp môn ấy, có thể nói đúng đắn về ta rằng: ‘Sa-môn Gotama không biết thưởng thức;’ và ông đã không nghĩ đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
Ayaṁ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘nibbhogo samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṁ tvaṁ sandhāya vadesī”ti.
“Sa-môn Gotama thuyết về không hành động!””
“Akiriyavādo bhavaṁ gotamo”ti?
Này Bà-la-môn, có một pháp đúng đắn mà ông có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama thuyết về không hành động!”
“Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘akiriyavādo samaṇo gotamo’ti.
Này Bà-la-môn, Ta thuyết về không hành động đối với việc làm ác do thân, khẩu, ý;
Ahañhi, brāhmaṇa, akiriyaṁ vadāmi kāyaduccaritassa vacīduccaritassa manoduccaritassa.
Ta thuyết về không hành động của các pháp ác và những điều bất thiện.
Anekavihitānaṁ pāpakānaṁ akusalānaṁ dhammānaṁ akiriyaṁ vadāmi.
Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn, mà với pháp môn ấy, có thể nói đúng đắn về ta rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về không hành động;’ và ông đã không nghĩ đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
Ayaṁ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘akiriyavādo samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṁ tvaṁ sandhāya vadesī”ti.
“Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt!”
“Ucchedavādo bhavaṁ gotamo”ti?
Này Bà-la-môn, có một pháp đúng đắn mà ông có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt!”
“Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘ucchedavādo samaṇo gotamo’ti.
Này Bà-la-môn, Ta thuyết về sự đoạn diệt của tham ái, sân hận, si mê;
Ahañhi, brāhmaṇa, ucchedaṁ vadāmi rāgassa dosassa mohassa.
Ta thuyết về sự đoạn diệt của các pháp ác và những điều bất thiện.
Anekavihitānaṁ pāpakānaṁ akusalānaṁ dhammānaṁ ucchedaṁ vadāmi.
Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn, mà với pháp môn ấy, có thể nói đúng đắn về ta rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về đoạn diệt;’ và ông đã không nghĩ đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
Ayaṁ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘ucchedavādo samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṁ tvaṁ sandhāya vadesī”ti.
“Sa-môn Gotama thuyết về sự nhàm chán!”
“Jegucchī bhavaṁ gotamo”ti?
Này Bà-la-môn, có một pháp đúng đắn mà ông có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama thuyết về sự nhàm chán!”
“Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘jegucchī samaṇo gotamo’ti.
Này Bà-la-môn, Ta nhàm chán với việc làm ác do thân, khẩu, ý;
Ahañhi, brāhmaṇa, jigucchāmi kāyaduccaritena vacīduccaritena manoduccaritena.
Ta nhàm chán đối với sự thành tựu của các pháp ác và những điều bất thiện.
Anekavihitānaṁ pāpakānaṁ akusalānaṁ dhammānaṁ samāpattiyā jigucchāmi.
Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn, mà với pháp môn ấy, có thể nói đúng đắn về ta rằng: ‘Sa-môn Gotama thuyết về sự nhàm chán;’ và ông đã không nghĩ đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
Ayaṁ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘jegucchī samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṁ tvaṁ sandhāya vadesī”ti.
“Sa-môn Gotama là người ngăn trừ!”
“Venayiko bhavaṁ gotamo”ti?
Này Bà-la-môn, có một pháp đúng đắn mà ông có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người ngăn trừ!”
“Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘venayiko samaṇo gotamo’ti.
Này Bà-la-môn, Ta thuyết về pháp đưa đến sự ngăn trừ đối với tham ái, sân hận và si mê.
Ahañhi, brāhmaṇa, vinayāya dhammaṁ desemi rāgassa dosassa mohassa.
Ta thuyết về pháp đưa đến sự ngăn trừ đối với các pháp ác và những điều bất thiện.
Anekavihitānaṁ pāpakānaṁ akusalānaṁ dhammānaṁ vinayāya dhammaṁ desemi.
Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn, mà với pháp môn ấy, có thể nói đúng đắn về ta rằng: ‘Sa-môn Gotama là người ngăn trừ;’ và ông đã không nghĩ đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
Ayaṁ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘venayiko samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṁ tvaṁ sandhāya vadesī”ti.
“Sa-môn Gotama là người diệt trừ!”
“Tapassī bhavaṁ gotamo”ti?
Này Bà-la-môn, có một pháp đúng đắn mà ông có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người diệt trừ!”
“Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘tapassī samaṇo gotamo’ti.
Này Bà-la-môn, Ta thuyết rằng các pháp ác và những điều bất thiện từ thân, khẩu, ý cần được diệt trừ.
Tapanīyāhaṁ, brāhmaṇa, pāpake akusale dhamme vadāmi, kāyaduccaritaṁ vacīduccaritaṁ manoduccaritaṁ.
Này Bà-la-môn, người nào đã diệt trừ các pháp ác và những điều bất thiện, bị cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, không có nhân để tồn tại, không còn các điều kiện để sanh khởi trong tương lai; Ta gọi người ấy là: ‘Người diệt trừ.’
Yassa kho, brāhmaṇa, tapanīyā pāpakā akusalā dhammā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṁ anuppādadhammā tamahaṁ tapassīti vadāmi.
Này Bà-la-môn, các pháp ác và những điều bất thiện Như Lai đã diệt trừ, đã dứt bỏ, đã cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, không có nhân để tồn tại, không còn các điều kiện để sanh khởi trong tương lai.
Tathāgatassa kho, brāhmaṇa, tapanīyā pāpakā akusalā dhammā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṁ anuppādadhammā.
Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn, mà với pháp môn ấy, có thể nói đúng đắn về ta rằng: ‘Sa-môn Gotama là người diệt trừ;’ và ông đã không nghĩ đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
Ayaṁ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘tapassī samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṁ tvaṁ sandhāya vadesī”ti.
“Sa-môn Gotama là người thoát khỏi thai tạng!”
“Apagabbho bhavaṁ gotamo”ti?
Này Bà-la-môn, có một pháp đúng đắn mà ông có thể nói rằng: “Sa-môn Gotama là người thoát khỏi thai tạng!”
“Atthi khvesa, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘apagabbho samaṇo gotamo’ti.
Này Bà-la-môn, người nào sanh vào thai tạng trong ngày vị lai, tức là sự tái sanh và hiện hữu trong ngày vị lai, người ấy đã dứt bỏ, đã cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, không có nhân để tồn tại, không còn các điều kiện để sanh khởi trong tương lai; Ta gọi người ấy là: ‘Người thoát khỏi thai tạng.’
Yassa kho, brāhmaṇa, āyatiṁ gabbhaseyyā punabbhavābhinibbatti pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṁ anuppādadhammā tamahaṁ apagabbhoti vadāmi.
Này Bà-la-môn, Như Lai sanh vào thai tạng trong ngày vị lai, tức là sự tái sanh và hiện trong ngày vị lai, Như Lai đã dứt bỏ, đã cắt lìa, như cây thốt nốt đã bị bứng gốc, không có nhân để tồn tại, không còn các điều kiện để sanh khởi trong tương lai.
Tathāgatassa kho, brāhmaṇa, āyatiṁ gabbhaseyyā punabbhavābhinibbatti pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṁ anuppādadhammā.
Này Bà-la-môn, thật sự đây là pháp môn, mà với pháp môn ấy, có thể nói đúng đắn về ta rằng: ‘Sa-môn Gotama là người thoát khỏi thai tạng;’ và ông đã không nghĩ đến ý nghĩa ấy khi nói ra.”
Ayaṁ kho, brāhmaṇa, pariyāyo yena maṁ pariyāyena sammā vadamāno vadeyya—‘apagabbho samaṇo gotamo’ti, no ca kho yaṁ tvaṁ sandhāya vadesi.
Này Bà-la-môn, cũng giống như con gà mái đẻ được tám, hoặc mười, hoặc mười hai quả trứng.
Seyyathāpi, brāhmaṇa, kukkuṭiyā aṇḍāni aṭṭha vā dasa vā dvādasa vā.
Nếu con gà mái nằm lên trứng, ủ ấm, ấp đúng cách.
Tānassu kukkuṭiyā sammā adhisayitāni sammā pariseditāni sammā paribhāvitāni.
Và trong số gà con mới nở ấy, con nào dùng vuốt của hoặc mỏ phá vỡ vỏ trứng và nở ra an toàn trước tiên, thì nên nói về con gà con ấy là thế nào? lớn nhất hay nhỏ nhất?”
Yo nu kho tesaṁ kukkuṭacchāpakānaṁ paṭhamataraṁ pādanakhasikhāya vā mukhatuṇḍakena vā aṇḍakosaṁ padāletvā sotthinā abhinibbhijjeyya, kinti svāssa vacanīyo—‘jeṭṭho vā kaniṭṭho vā’”ti?
“Thưa Sa-môn Gotama, nên gọi nó là ‘con lớn nhất’. Bởi vì nó lớn nhất trong bầy.”
“Jeṭṭhotissa, bho gotama, vacanīyo. So hi nesaṁ jeṭṭho hotī”ti.
“Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong số chúng sanh sống trong vô minh (ví như) đang ở trong quả trứng và bị trùm kín lại, Ta là người duy nhất đã phá vỡ vỏ trứng vô minh và chứng đắc quả vị Chánh Đẳng Giác vô thượng ở trên đời.
“Evameva kho ahaṁ, brāhmaṇa, avijjāgatāya pajāya aṇḍabhūtāya pariyonaddhāya avijjaṇḍakosaṁ padāletvā ekova loke anuttaraṁ sammāsambodhiṁ abhisambuddho.
Này Bà-la-môn, chính Ta đây là người đứng đầu và cao thượng nhất trong thế gian.
Svāhaṁ, brāhmaṇa, jeṭṭho seṭṭho lokassa.
Này Bà-la-môn, Ta có sự tinh tấn dũng mãnh và chánh niệm vững vàng, thân được khinh an và tâm được định tĩnh.
Āraddhaṁ kho pana me, brāhmaṇa, vīriyaṁ ahosi asallīnaṁ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā, passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṁ cittaṁ ekaggaṁ.
Này Bà-la-môn, sau khi thoát khỏi sự trói buộc của ngũ dục và các pháp bất thiện, Ta đã chứng và trú nhất thiền với hỷ và lạc sanh lên, có tầm, có tứ.
So kho ahaṁ, brāhmaṇa, vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṁ savicāraṁ vivekajaṁ pītisukhaṁ paṭhamaṁ jhānaṁ upasampajja vihāsiṁ.
Do sự vắng lặng của tầm và tứ, Ta đã chứng và trú nhị thiền với nội tâm an tĩnh, nhất tâm, có hỷ và lạc sanh lên do định, không tầm, không tứ.
Vitakkavicārānaṁ vūpasamā ajjhattaṁ sampasādanaṁ cetaso ekodibhāvaṁ avitakkaṁ avicāraṁ samādhijaṁ pītisukhaṁ dutiyaṁ jhānaṁ upasampajja vihāsiṁ.
Ly hỷ, trú xả, chánh niệm và tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “Xả, niệm, lạc trú”, ta chứng và an trú thiền thứ ba.
Pītiyā ca virāgā upekkhako ca vihāsiṁ sato ca sampajāno, sukhañca kāyena paṭisaṁvedesiṁ, yaṁ taṁ ariyā ācikkhanti—‘upekkhako satimā sukhavihārī’ti tatiyaṁ jhānaṁ upasampajja vihāsiṁ.
Do xả lạc, xả khổ, diệt hỷ và ưu đã cảm thọ trước, ta chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṁ atthaṅgamā adukkhamasukhaṁ upekkhāsatipārisuddhiṁ catutthaṁ jhānaṁ upasampajja vihāsiṁ.
Khi tâm được định tĩnh, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, ổn định, vững chắc, Ta đã hướng tâm đến chánh trí nhớ về các kiếp sống trước.
So evaṁ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte pubbenivāsānussatiñāṇāya cittaṁ abhininnāmesiṁ.
Ta nhớ lại nhiều kiếp sống trước như là—một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, bốn kiếp, năm kiếp, mười kiếp, 12 kiếp, 13 kiếp, 14 kiếp, 50 kiếp, 100 kiếp, 1.000 kiếp, 100.000 kiếp, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp và thành kiếp:
So anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarāmi, seyyathidaṁ—ekampi jātiṁ dvepi jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi jātiyo dasapi jātiyo vīsampi jātiyo tiṁsampi jātiyo cattālīsampi jātiyo paññāsampi jātiyo jātisatampi, jātisahassampi jātisatasahassampi, anekepi saṁvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe anekepi saṁvaṭṭavivaṭṭakappe—
ʻ‘Ở nơi ấy, Ta có tên như vầy, dòng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm lạc và khổ như vầy, có tuổi thọ như vầy.
‘amutrāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto;
Từ chỗ ấy, Ta chết đi rồi sanh lên tại chỗ kia.
so tato cuto amutra udapādiṁ;
Ở nơi kia, Ta có tên như vầy, dòng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm lạc và khổ như vầy, có tuổi thọ như vầy.
tatrāpāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto;
Từ nơi kia, Ta chết đi rồi sanh lên tại nơi này.’
so tato cuto idhūpapanno’ti.
Như thế, Ta nhớ lại nhiều kiếp sống trước với các nét đại cương và riêng biệt.
Iti sākāraṁ sauddesaṁ anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarāmi.
Này Bà-la-môn, vào canh đầu Ta đã chứng được Minh thứ nhất,
Ayaṁ kho me, brāhmaṇa, rattiyā paṭhame yāme paṭhamā vijjā adhigatā,
Vô minh diệt, minh sanh khởi, bóng tối diệt, ánh sáng sanh.
avijjā vihatā, vijjā uppannā, tamo vihato, āloko uppanno—
Ta đã thành tựu nhờ chánh niệm, tinh tấn, quyết tâm.
yathā taṁ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato.
Này Bà-la-môn, ta đã phá vỡ (vô minh) đầu tiên, như con gà con thoát ra khỏi vỏ trứng vậy.
Ayaṁ kho me, brāhmaṇa, paṭhamābhinibbhidā ahosi kukkuṭacchāpakasseva aṇḍakosamhā.
Khi tâm được định tĩnh, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, ổn định, vững chắc, Ta đã hướng tâm đến chánh trí về sự sanh tử của các chúng sanh.
So evaṁ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte sattānaṁ cutūpapātañāṇāya cittaṁ abhininnāmesiṁ.
Với Thiên nhãn thuần tịnh vượt trội loài người, Ta nhìn thấy các chúng sanh chết đi rồi sanh trở lại thành hạ tiện hay cao quý, xinh hay xấu xí, sung sướng hay đau khổ, Ta biết được rằng các chúng sanh đều đi theo hạnh nghiệp của họ:
So dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passāmi cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate, yathākammūpage satte pajānāmi—
Thật vậy, những chúng sanh này có hành động ác bằng thân, khẩu, ý, vu khống các bậc Thánh, có tà kiến, hành động do tà kiến.
‘ime vata bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā manoduccaritena samannāgatā ariyānaṁ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā;
Những kẻ ấy, thân hoại mạng chung, bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục.
te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapannā.
Trái lại, những chúng sanh có hành động thiện bằng thân, khẩu, ý, không vu khống các bậc Thánh, có chánh kiến, hành động theo chánh kiến.
Ime vā pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṁ anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā;
Những người ấy, khi thân hoại mạng chung, được sanh vào nơi nhàn cảnh, cõi trời, loài người.’
te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapannā’ti.
Cũng vậy, với Thiên nhãn thuần tịnh vượt trội loài người, Ta nhìn thấy các chúng sanh chết đi rồi sanh trở lại thành hạ tiện hay cao quý, xinh đẹp hay xấu xí, sung sướng hay đau khổ, Ta biết được rằng các chúng sanh đều đi theo hạnh nghiệp của họ.
Iti dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passāmi cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate, yathākammūpage satte pajānāmi.
Này Bà-la-môn, vào canh giữa Ta đã chứng đạt Minh thứ hai này,
Ayaṁ kho me, brāhmaṇa, rattiyā majjhime yāme dutiyā vijjā adhigatā,
vô minh diệt, minh sanh, bóng tối diệt, ánh sáng sanh.
avijjā vihatā, vijjā uppannā, tamo vihato, āloko uppanno—
Ta đã thành tựu nhờ chánh niệm, tinh tấn, quyết tâm.
yathā taṁ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato.
Này Bà-la-môn, ta đã phá vỡ (vô minh) lần thứ hai, như con gà con thoát ra khỏi vỏ trứng vậy.
Ayaṁ kho me, brāhmaṇa, dutiyābhinibbhidā ahosi kukkuṭacchāpakasseva aṇḍakosamhā.
Khi tâm được định tĩnh, thuần tịnh, trong sạch, không ô nhiễm, lìa khỏi phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, ổn định, vững chắc, Ta đã hướng tâm đến chánh trí đoạn tận các lậu hoặc.
So evaṁ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte āsavānaṁ khayañāṇāya cittaṁ abhininnāmesiṁ.
Ta đây đã biết rõ: ‘Đây là Khổ’, ‘Đây là nguyên nhân của Khổ’, ‘Đây là sự Diệt Khổ’, ‘Đây là con đường đưa đến sự Diệt Khổ’
So ‘idaṁ dukkhan’ti yathābhūtaṁ abbhaññāsiṁ, ‘ayaṁ dukkhasamudayo’ti yathābhūtaṁ abbhaññāsiṁ, ‘ayaṁ dukkhanirodho’ti yathābhūtaṁ abbhaññāsiṁ, ‘ayaṁ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṁ abbhaññāsiṁ;
Ta đây đã biết rõ: ‘Đây là các lậu hoặc’; ‘Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc’; ‘Đây là sự diệt tận các lậu hoặc’; ‘Đây là con đường đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc’.
‘ime āsavā’ti yathābhūtaṁ abbhaññāsiṁ, ‘ayaṁ āsavasamudayo’ti yathābhūtaṁ abbhaññāsiṁ, ‘ayaṁ āsavanirodho’ti yathābhūtaṁ abbhaññāsiṁ, ‘ayaṁ āsavanirodhagāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṁ abbhaññāsiṁ.
Khi Ta biết và thấy như vậy, thì tâm cũng được giải thoát khỏi dục lậu, tâm cũng đã được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm cũng đã được giải thoát khỏi vô minh lậu.
Tassa me evaṁ jānato evaṁ passato kāmāsavāpi cittaṁ vimuccittha bhavāsavāpi cittaṁ vimuccittha avijjāsavāpi cittaṁ vimuccittha.
Khi đã giải thoát, Ta biết: ‘Đã giải thoát.’
Vimuttasmiṁ vimuttamiti ñāṇaṁ ahosi.
Và Ta biết rõ: ‘Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời này sẽ không còn đời sống khác nữa.’
‘Khīṇā jāti, vusitaṁ brahmacariyaṁ, kataṁ karaṇīyaṁ, nāparaṁ itthattāyā’ti abbhaññāsiṁ.
Này Bà-la-môn, vào canh cuối Ta đã chứng đạt Minh thứ ba này,
Ayaṁ kho me, brāhmaṇa, rattiyā pacchime yāme tatiyā vijjā adhigatā,
vô minh diệt, minh sanh, bóng tối diệt, ánh sáng sanh,
avijjā vihatā, vijjā uppannā, tamo vihato, āloko uppanno—
Ta đã thành tựu nhờ chánh niệm, tinh tấn, quyết tâm.
yathā taṁ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato.
Này Bà-la-môn, ta đã phá vỡ (vô minh) lần thứ ba, như con gà con thoát ra khỏi vỏ trứng vậy.”
Ayaṁ kho me, brāhmaṇa, tatiyābhinibbhidā ahosi—kukkuṭacchāpakasseva aṇḍakosamhā”ti.
Khi nghe vậy, Bà-la-môn Verañja đã nói với đức Thế Tôn:
Evaṁ vutte, verañjo brāhmaṇo bhagavantaṁ etadavoca—
“Tôn giả Gotama là vị cao niên! Tôn giả Gotama là người tôn quý!
“jeṭṭho bhavaṁ gotamo, seṭṭho bhavaṁ gotamo.
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Abhikkantaṁ, bho gotama, abhikkantaṁ, bho gotama.
Cũng vậy, tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.
Seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṁ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṁ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṁ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṁ dhāreyya—‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti;
Cũng vậy Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày. Và nay tôi xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng.
evamevaṁ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito. Esāhaṁ bhavantaṁ gotamaṁ saraṇaṁ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.
Mong Tôn giả Gotama nhận tôi làm đệ tử; từ này trở đi cho đến mạng chung, tôi trọn đời quy ngưỡng. Xin Tôn giả Gotama hãy nhận lời tôi đến an cư mùa mưa tại Verañjā cùng với hội chúng tỳ khưu.”
Upāsakaṁ maṁ bhavaṁ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gataṁ. Adhivāsetu ca me bhavaṁ gotamo verañjāyaṁ vassāvāsaṁ saddhiṁ bhikkhusaṅghenā”ti.
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời, hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn. Bà-la-môn Verañja từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena. Atha kho verañjo brāhmaṇo bhagavato adhivāsanaṁ viditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā pakkāmi.
Vào lúc bấy giờ, xứ Verañjā xảy ra nạn thiếu lương thực, đói khát, mùa màng bị bạc trắng và tiêu hoại thành rơm. Thật không dễ dàng để có được đồ ăn khất thực.
Tena kho pana samayena verañjā dubbhikkhā hoti dvīhitikā setaṭṭhikā salākāvuttā na sukarā uñchena paggahena yāpetuṁ.
Cũng vào lúc ấy, có những đoàn thương lái từ xứ Uttarāpatha đã đến cư trú mùa mưa tại Verañjā cùng với năm trăm con ngựa.
Tena kho pana samayena uttarāpathakā assavāṇijā pañcamattehi assasatehi verañjaṁ vassāvāsaṁ upagatā honti.
Ở các bãi nhốt ngựa, họ có chuẩn bị từng phần thức ăn cho ngựa đến các vị tỳ khưu.
Tehi assamaṇḍalikāsu bhikkhūnaṁ patthapatthapulakaṁ paññattaṁ hoti.
Vào buổi sáng, các vị tỳ khưu mặc y cầm bát rồi đi vào trong thành Verañjā để khất thực. Khi không nhận được vật gì, các vị đến khất thực ở các bãi nhốt ngựa. Mỗi vị mang về tu viện một phần thức ăn cho ngựa. Các vị giã đi giã lại trong cối rồi thọ dụng.
Bhikkhū pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya verañjaṁ piṇḍāya pavisitvā piṇḍaṁ alabhamānā assamaṇḍalikāsu piṇḍāya caritvā patthapatthapulakaṁ ārāmaṁ āharitvā udukkhale koṭṭetvā koṭṭetvā paribhuñjanti.
Đại đức Ānanda nghiền phần thức ăn cho ngựa ở tảng đá rồi dâng lên Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thọ dụng thức ăn ấy.
Āyasmā panānando patthapulakaṁ silāyaṁ pisitvā bhagavato upanāmeti. Taṁ bhagavā paribhuñjati.
Và Đức Thế Tôn nghe tiếng cối giã.
Assosi kho bhagavā udukkhalasaddaṁ.
Các đấng Như Lai biết chuyện gì đang xảy ra, có khi hỏi, có khi không; các vị ấy biết khi nào nên hỏi và khi nào không nên hỏi.
Jānantāpi tathāgatā pucchanti, jānantāpi na pucchanti; kālaṁ viditvā pucchanti, kālaṁ viditvā na pucchanti;
Các đấng chỉ hỏi khi nào lợi ích, còn không thì sẽ không hỏi. Các đấng Như Lai không làm điều gì mà không đưa tới lợi ích.
atthasaṁhitaṁ tathāgatā pucchanti, no anatthasaṁhitaṁ. Anatthasaṁhite setughāto tathāgatānaṁ.
Chư Phật chỉ hỏi các vị tỳ kheo bởi hai lý do: “Thuyết Pháp hoặc ban hành giới luật cho các đệ tử.”
Dvīhi ākārehi buddhā bhagavanto bhikkhū paṭipucchanti— dhammaṁ vā desessāma, sāvakānaṁ vā sikkhāpadaṁ paññapessāmāti.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng: “Này Ānanda, tiếng cối giã ấy là gì vậy?”
Atha kho bhagavā āyasmantaṁ ānandaṁ āmantesi—“kiṁ nu kho so, ānanda, udukkhalasaddo”ti?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Atha kho āyasmā ānando bhagavato etamatthaṁ ārocesi.
“Lành thay! Lành thay! Ānanda
“Sādhu sādhu, ānanda.
Này Ānanda, Ngươi đã làm việc khó làm, ngươi đã giải quyết được các vấn đề xảy ra trong nạn đói. Các thế hệ sau sẽ coi thường gạo sāli và thịt.”
Tumhehi, ānanda, sappurisehi vijitaṁ. Pacchimā janatā sālimaṁsodanaṁ atimaññissatī”ti.
Sau đó, đại đức Mục-Kiền-Liên (Mahāmoggallāna) đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Mục-Kiền-Liên (Mahāmoggallāna) bạch với đức Thế Tôn:
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā mahāmoggallāno bhagavantaṁ etadavoca—
“Hiện tại, bạch Đức Thế Tôn, Verañjā đang thiếu lương thực và bị đói kém, mùa màng bị bệnh đầu trắng và biến thành rơm. Không dễ gì kiếm được đồ ăn bằng việc đi khất thực.
“etarahi, bhante, verañjā dubbhikkhā dvīhitikā setaṭṭhikā salākāvuttā. Na sukarā uñchena paggahena yāpetuṁ.
Bạch Ngài, nhưng bề mặt trái đất rộng lớn này có rất nhiều thức ăn, có vị như mật ong nguyên chất. Bạch Ngài, có tốt không nếu con lật ngược địa cầu (trái đất) để các tỳ khưu có thể thọ dụng các chất dinh dưỡng được sanh ra bên dưới?”
Imissā, bhante, mahāpathaviyā heṭṭhimatalaṁ sampannaṁ—seyyathāpi khuddamadhuṁ anīlakaṁ; evamassādaṁ. Sādhāhaṁ, bhante, pathaviṁ parivatteyyaṁ. Bhikkhū pappaṭakojaṁ paribhuñjissantī”ti.
“Này Mục-Kiền-Liên (Moggallāna), còn các chúng sanh sống ở quả địa cầu sẽ như thế nào?
“Ye pana te, moggallāna, pathavinissitā pāṇā te kathaṁ karissasī”ti?
“Bạch Ngài, con sẽ biến một bàn tay trở thành đại địa. Và đưa những chúng sanh ấy đi đến đó. Rồi sau đó, con lật ngược địa cầu bằng tay còn lại.”
“Ekāhaṁ, bhante, pāṇiṁ abhinimminissāmi—seyyathāpi mahāpathavī. Ye pathavinissitā pāṇā te tattha saṅkāmessāmi. Ekena hatthena pathaviṁ parivattessāmī”ti.
“Hãy để nó như vậy, Moggallāna, đừng lật ngược địa cầu. Những chúng sanh có thể bị rối loạn tâm trí.”
“Alaṁ, moggallāna, mā te rucci pathaviṁ parivattetuṁ. Vipallāsampi sattā paṭilabheyyun”ti.
“Bạch Ngài, thật tốt nếu tất cả hội chúng tỳ khưu có thể đi đến Uttarakuru để khất thực.”
“Sādhu, bhante, sabbo bhikkhusaṅgho uttarakuruṁ piṇḍāya gaccheyyā”ti.
“Hãy để nó như vậy, Moggallāna, đừng theo đuổi điều này.”
“Alaṁ, moggallāna, mā te rucci sabbassa bhikkhusaṅghassa uttarakuruṁ piṇḍāya gamanan”ti.
Khi ấy, đại đức Sāriputta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ khởi lên như vầy:
Atha kho āyasmato sāriputtassa rahogatassa paṭisallīnassa evaṁ cetaso parivitakko udapādi—
“Phạm hạnh thời chư Phật nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật nào đã tồn tại lâu dài?”
“katamesānaṁ kho buddhānaṁ bhagavantānaṁ brahmacariyaṁ na ciraṭṭhitikaṁ ahosi; katamesānaṁ buddhānaṁ bhagavantānaṁ brahmacariyaṁ ciraṭṭhitikaṁ ahosī”ti?
Sau đó vào lúc chiều tối, đại đức Sāriputta khi xuất khỏi thiền tịnh đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Sāriputta bạch với đức Thế Tôn:
Atha kho āyasmā sāriputto sāyanhasamayaṁ paṭisallānā vuṭṭhito yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā sāriputto bhagavantaṁ etadavoca—
“Bạch Ngài, trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ đã khởi lên như vầy: “Phạm hạnh thời chư Phật nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật nào đã tồn tại lâu dài?”
“idha mayhaṁ, bhante, rahogatassa paṭisallīnassa evaṁ cetaso parivitakko udapādi: —‘katamesānaṁ kho buddhānaṁ bhagavantānaṁ brahmacariyaṁ na ciraṭṭhitikaṁ ahosi, katamesānaṁ buddhānaṁ bhagavantānaṁ brahmacariyaṁ ciraṭṭhitikaṁ ahosī’ti.
Bạch Ngài, vậy thì Phạm hạnh thời chư Phật nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật nào đã tồn tại lâu dài?”
Katamesānaṁ nu kho, bhante, buddhānaṁ bhagavantānaṁ brahmacariyaṁ na ciraṭṭhitikaṁ ahosi, katamesānaṁ buddhānaṁ bhagavantānaṁ brahmacariyaṁ ciraṭṭhitikaṁ ahosī”ti?
“Này Sāriputta, Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài.
“Bhagavato ca, sāriputta, vipassissa bhagavato ca sikhissa bhagavato ca vessabhussa brahmacariyaṁ na ciraṭṭhitikaṁ ahosi.
Này Sāriputta, Phạm hạnh thời Thế Tôn Kakusandha, thời Thế Tôn Konāgamana, thời Thế Tôn Kassapa tồn tại lâu dài.”
Bhagavato ca, sāriputta, kakusandhassa bhagavato ca koṇāgamanassa bhagavato ca kassapassa brahmacariyaṁ ciraṭṭhitikaṁ ahosī”ti.
“Bạch Ngài, lý do nào khiến Phạm hạnh thời Thế Tôn Vipassī, thời Thế Tôn Sikhī, thời Thế Tôn Vessabhū không tồn tại lâu dài?”
“Ko nu kho, bhante, hetu ko paccayo, yena bhagavato ca vipassissa bhagavato ca sikhissa bhagavato ca vessabhussa brahmacariyaṁ na ciraṭṭhitikaṁ ahosī”ti?
“Này Sāriputta, đức Thế Tôn Vipassī, đức Thế Tôn Sikhī, và đức Thế Tôn Vessabhū đã không ra sức để thuyết giảng Giáo Pháp1Đức Thế Tôn Vipassī, đức Thế Tôn Sikhī, và đức Thế Tôn Vessabhū có tuổi thọ rất dài, và hội chúng rất đông đảo (3 hội chúng đều là bật lậu tận). Xem DN14 Kinh Đại Bổn một cách chi tiết đến các đệ tử.
“Bhagavā ca, sāriputta, vipassī bhagavā ca sikhī bhagavā ca vessabhū kilāsuno ahesuṁ sāvakānaṁ vitthārena dhammaṁ desetuṁ.
Các vị ấy có chút ít: Kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu, Phương quảng.
Appakañca nesaṁ ahosi suttaṁ geyyaṁ veyyākaraṇaṁ gāthā udānaṁ itivuttakaṁ jātakaṁ abbhutadhammaṁ vedallaṁ.
Các điều học đã không được quy định và giới bổn Pātimokkha đã không được công bố cho các đệ tử.2Trong kinh DN14 Kinh Đại Bổn có ghi lại Đức Phật Vipassī có ban hành giới bổn đến các Vị Tỳ Khưu một cách rất vắn tắt, chủ yếu để nhắc nhở nhau, vì Hội Chúng của Ngài chỉ toàn là Bậc Thánh Nhân.
Apaññattaṁ sāvakānaṁ sikkhāpadaṁ. Anuddiṭṭhaṁ pātimokkhaṁ.
Sau khi các Thế Tôn ấy tịch diệt, và các vị đệ tử Thanh Văn đã giác ngộ dưới thời các vị Phật ấy cũng tịch diệt, các vị đệ tử sau này có tên khác nhau, dòng họ khác nhau, giai cấp khác nhau, xuất gia từ gia tộc khác nhau, các vị ấy đã khiến cho Phạm hạnh biến mất nhanh chóng.
Tesaṁ buddhānaṁ bhagavantānaṁ antaradhānena buddhānubuddhānaṁ sāvakānaṁ antaradhānena ye te pacchimā sāvakā nānānāmā nānāgottā nānājaccā nānākulā pabbajitā te taṁ brahmacariyaṁ khippaññeva antaradhāpesuṁ.
Này Sāriputta, cũngó giống như hoa trên tấm ván gỗ. Nếu chúng không được giữ lại với nhau bằng một sợi dây, chúng sẽ bị phân tán, tung toé và bị gió phá hủy. Tại sao như vậy?
Seyyathāpi, sāriputta, nānāpupphāni phalake nikkhittāni suttena asaṅgahitāni tāni vāto vikirati vidhamati viddhaṁseti. Taṁ kissa hetu?
Này Sāriputta, cũng như các bông hoa không được kết lại với nhau bằng sợi chỉ.
Yathā taṁ suttena asaṅgahitattā.
Cũng vậy, này Sāriputta, giống như các bông hoa không được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, với sự tịch diệt của các Thế Tôn ấy, và các vị đệ tử Thanh Văn đã giác ngộ dưới thời các vị Phật ấy cũng tịch diệt, các vị đệ tử sau này có tên khác nhau, dòng họ khác nhau, giai cấp khác nhau, xuất gia từ gia tộc khác nhau, các vị ấy đã khiến cho Phạm hạnh biến mất nhanh chóng.
Evameva kho, sāriputta, tesaṁ buddhānaṁ bhagavantānaṁ antaradhānena buddhānubuddhānaṁ sāvakānaṁ antaradhānena ye te pacchimā sāvakā nānānāmā nānāgottā nānājaccā nānākulā pabbajitā te taṁ brahmacariyaṁ khippaññeva antaradhāpesuṁ.
Và các Thế Tôn ấy dùng tâm biết tâm để giáo huấn các đệ tử.
Akilāsuno ca te bhagavanto ahesuṁ sāvake cetasā ceto paricca ovadituṁ.
Này Sāriputta, trong thời quá khứ, đức Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, ngụ trong khu rừng ghê rợn nọ, dùng tâm biết tâm rồi giáo huấn và chỉ dạy hội chúng tỳ khưu 1.000 vị rằng:
Bhūtapubbaṁ, sāriputta, vessabhū bhagavā arahaṁ sammāsambuddho aññatarasmiṁ bhiṁsanake vanasaṇḍe sahassaṁ bhikkhusaṅghaṁ cetasā ceto paricca ovadati anusāsati—
Hãy suy tư như thế này3Suy tầm về ly dục, suy tầm về vô sân, và suy tầm vô hại (VinA. i, 188), chớ suy tư như thế kia4Chớ suy tầm về ngũ dục, chớ suy tầm về sân hận, chớ suy tầm về hãm hại (Sđd).
‘evaṁ vitakketha, mā evaṁ vitakkayittha;
Hãy tác ý như thế này5Tác ý đến vô thường, tác ý đến khổ não, tác ý đến vô ngã, tác ý đến bất tịnh (Sđd), chớ tác ý như thế kia6Chớ tác ý đến bốn điều đối nghịch trên là: thường, lạc, ngã, tịnh (Sđd).
evaṁ manasikarotha, mā evaṁ manasākattha;
Hãy từ bỏ điều này7Hãy từ bỏ bất thiện pháp (Sđd), hãy thành tựu an trú vào điều kia8Hãy thành tựu và an trú vào thiện pháp (Sđd).
idaṁ pajahatha, idaṁ upasampajja viharathā’ti.
Này Sāriputta, khi ấy trong lúc được đức Thế Tôn Vessabhū, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, giáo huấn như thế, tâm của 1.000 vị tỳ khưu ấy không còn chấp thủ và giải thoát khỏi các lậu hoặc.
Atha kho, sāriputta, tassa bhikkhusahassassa vessabhunā bhagavatā arahatā sammāsambuddhena evaṁ ovadiyamānānaṁ evaṁ anusāsiyamānānaṁ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṁsu.
Này Sāriputta, nếu người nào chưa dứt bỏ ái dục đi vào khu rừng ấy, thời các sợi lông của họ sẽ dựng đứng lên.
Tatra sudaṁ, sāriputta, bhiṁsanakassa vanasaṇḍassa bhiṁsanakatasmiṁ hoti—yo koci avītarāgo taṁ vanasaṇḍaṁ pavisati, yebhuyyena lomāni haṁsanti.
Này Sāriputta, đây là nguyên nhân khiến Phạm hạnh thời Thế Tôn Vipassī, thời Thế Tôn Sikhī, thời Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài.”
Ayaṁ kho, sāriputta, hetu ayaṁ paccayo yena bhagavato ca vipassissa bhagavato ca sikhissa bhagavato ca vessabhussa brahmacariyaṁ na ciraṭṭhitikaṁ ahosī”ti.
“Bạch Ngài, vậy do nhân nào khiến Phạm hạnh thời Thế Tôn Kakusandha, thời Thế Tôn Konāgamana, thời Thế Tôn Kassapa tồn tại lâu dài?”
“Ko pana, bhante, hetu ko paccayo yena bhagavato ca kakusandhassa bhagavato ca koṇāgamanassa bhagavato ca kassapassa brahmacariyaṁ ciraṭṭhitikaṁ ahosī”ti?
Này Sāriputta, đức Thế Tôn Kakusandha, đức Thế Tôn Konāgamana, và đức Thế Tôn Kassapa đã ra sức để thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết đến các đệ tử.
“Bhagavā ca, sāriputta, kakusandho bhagavā ca koṇāgamano bhagavā ca kassapo akilāsuno ahesuṁ sāvakānaṁ vitthārena dhammaṁ desetuṁ.
Các vị ấy đã có nhiều suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthā, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhūtadhammaṃ, vedallaṃ.
Bahuñca nesaṁ ahosi suttaṁ geyyaṁ veyyākaraṇaṁ gāthā udānaṁ itivuttakaṁ jātakaṁ abbhutadhammaṁ vedallaṁ,
Các điều học đã được quy định và giới bổn Pātimokkha đã được công bố cho các vị đệ tử.
paññattaṁ sāvakānaṁ sikkhāpadaṁ, uddiṭṭhaṁ pātimokkhaṁ.
Sau khi các Thế Tôn ấy tịch diệt, và các vị đệ tử Thanh Văn đã giác ngộ dưới thời các vị Phật ấy cũng tịch diệt, các vị đệ tử sau này có tên khác nhau, dòng họ khác nhau, giai cấp khác nhau, xuất gia từ gia tộc khác nhau, các vị ấy đã duy trì Phạm hạnh ấy được lâu dài.
Tesaṁ buddhānaṁ bhagavantānaṁ antaradhānena buddhānubuddhānaṁ sāvakānaṁ antaradhānena ye te pacchimā sāvakā nānānāmā nānāgottā nānājaccā nānākulā pabbajitā te taṁ brahmacariyaṁ ciraṁ dīghamaddhānaṁ ṭhapesuṁ.
Này Sāriputta, cũng giống như nhiều bông hoa đặt trên tấm ván gỗ và được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, gió không làm phân tán, không làm tung toé, và không hủy hoại chúng. Tại sao như vậy?
Seyyathāpi, sāriputta, nānāpupphāni phalake nikkhittāni suttena susaṅgahitāni, tāni vāto na vikirati na vidhamati na viddhaṁseti. Taṁ kissa hetu?
Này Sāriputta, cũng như các bông hoa được kết lại với nhau bằng sợi chỉ.
Yathā taṁ suttena susaṅgahitattā.
Cũng vậy, này Sāriputta, giống như các bông hoa được kết lại với nhau bằng sợi chỉ, với sự tịch diệt của các Thế Tôn ấy, và các vị đệ tử Thanh Văn đã giác ngộ dưới thời các vị Phật ấy cũng tịch diệt, các vị đệ tử sau này có tên khác nhau, dòng họ khác nhau, giai cấp khác nhau, xuất gia từ gia tộc khác nhau, các vị ấy đã duy trì Phạm hạnh ấy được lâu dài.
Evameva kho, sāriputta, tesaṁ buddhānaṁ bhagavantānaṁ antaradhānena buddhānubuddhānaṁ sāvakānaṁ antaradhānena ye te pacchimā sāvakā nānānāmā nānāgottā nānājaccā nānākulā pabbajitā te taṁ brahmacariyaṁ ciraṁ dīghamaddhānaṁ ṭhapesuṁ.
Này Sāriputta, đây là nguyên nhân khiến Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài.”
Ayaṁ kho, sāriputta, hetu ayaṁ paccayo yena bhagavato ca kakusandhassa bhagavato ca koṇāgamanassa bhagavato ca kassapassa brahmacariyaṁ ciraṭṭhitikaṁ ahosī”ti.
Sau đó, đại đức Sāriputta từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và bạch rằng:
Atha kho āyasmā sāriputto uṭṭhāyāsanā ekaṁsaṁ uttarāsaṅgaṁ karitvā yena bhagavā tenañjaliṁ paṇāmetvā bhagavantaṁ etadavoca—
“Bạch đức Thế Tôn, nay là phải thời. Bạch Thế Tôn, nay là thời điểm đức Thế Tôn nên quy định điều học cho các đệ tử, nên công bố giới bổn Pātimokkha; như thế Phạm hạnh này có thể được tiếp tục và tồn tại lâu dài.”
“etassa, bhagavā, kālo. Etassa, sugata, kālo. Yaṁ bhagavā sāvakānaṁ sikkhāpadaṁ paññapeyya, uddiseyya pātimokkhaṁ, yathayidaṁ brahmacariyaṁ addhaniyaṁ assa ciraṭṭhitikan”ti.
“Này Sāriputta, hãy chờ đợi! Này Sāriputta, hãy chờ đợi! Các đấng Như Lai sẽ biết khi nào là phải thời.
“Āgamehi tvaṁ, sāriputta. Āgamehi tvaṁ, sāriputta. Tathāgatova tattha kālaṁ jānissati.
Này Sāriputta, khi nào một số pháp đưa đến lậu hoặc, chưa xuất hiện ở hội chúng thì khi ấy bậc Đạo Sư chưa quy định điều học và chưa công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử.
Na tāva, sāriputta, satthā sāvakānaṁ sikkhāpadaṁ paññapeti uddisati pātimokkhaṁ yāva na idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti.
Này Sāriputta, khi nào một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, thì bậc Đạo Sư sẽ quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử, nhằm diệt trừ các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
Yato ca kho, sāriputta, idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, atha satthā sāvakānaṁ sikkhāpadaṁ paññapeti uddisati pātimokkhaṁ tesaṁyeva āsavaṭṭhānīyānaṁ dhammānaṁ paṭighātāya.
Này Sāriputta, khi nào hội chúng chưa lớn mạnh về số lượng, thì khi ấy ở một số pháp đưa đến lậu hoặc, chưa xuất hiện ở hội chúng.
Na tāva, sāriputta, idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti yāva na saṅgho rattaññumahattaṁ patto hoti.
Này Sāriputta, chính bởi vì hội chúng đông đảo về số lượng, nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, thì lúc ấy bậc Đạo Sư sẽ quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử, nhằm diệt trừ các pháp đưa đến lậu hoặc.
Yato ca kho, sāriputta, saṅgho rattaññumahattaṁ patto hoti atha idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, atha satthā sāvakānaṁ sikkhāpadaṁ paññapeti uddisati pātimokkhaṁ tesaṁyeva āsavaṭṭhānīyānaṁ dhammānaṁ paṭighātāya.
Này Sāriputta, khi nào hội chúng chưa lớn mạnh và phát triển thì khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng.
Na tāva, sāriputta, idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, yāva na saṅgho vepullamahattaṁ patto hoti.
Này Sāriputta, chính vì hội chúng lớn mạnh và phát triển, nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, vì vậy bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử, nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
Yato ca kho, sāriputta, saṅgho vepullamahattaṁ patto hoti, atha idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, atha satthā sāvakānaṁ sikkhāpadaṁ paññapeti uddisati pātimokkhaṁ tesaṁyeva āsavaṭṭhānīyānaṁ dhammānaṁ paṭighātāya.
Này Sāriputta, khi nào hội chúng chưa dồi dào về lợi lộc thì cho đến khi ấy ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng.
Na tāva, sāriputta, idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, yāva na saṅgho lābhaggamahattaṁ patto hoti.
Này Sāriputta, vì hội chúng có sự dồi dào về lợi lộc, nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, vì vậy bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
Yato ca kho, sāriputta, saṅgho lābhaggamahattaṁ patto hoti, atha idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, atha satthā sāvakānaṁ sikkhāpadaṁ paññapeti uddisati pātimokkhaṁ tesaṁyeva āsavaṭṭhānīyānaṁ dhammānaṁ paṭighātāya.
Này Sāriputta, khi nào hội chúng chưa lớn mạnh về đa văn thì khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện ở hội chúng.
Na tāva, sāriputta, idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, yāva na saṅgho bāhusaccamahattaṁ patto hoti.
Này Sāriputta, vì hội chúng có sự lớn mạnh về đa văn, nên ở đây một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện ở hội chúng, vì vậy bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.
Yato ca kho, sāriputta, saṅgho bāhusaccamahattaṁ patto hoti, atha idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavanti, atha satthā sāvakānaṁ sikkhāpadaṁ paññapeti uddisati pātimokkhaṁ tesaṁyeva āsavaṭṭhānīyānaṁ dhammānaṁ paṭighātāya.
Này Sāriputta, bởi vì hội chúng tỳ khưu không có ô nhiễm, không có tội lỗi, đã lìa ác pháp, thanh tịnh, an trú trong giải thoát.
Nirabbudo hi, sāriputta, bhikkhusaṅgho nirādīnavo apagatakāḷako suddho sāre patiṭṭhito.
Này Sāriputta, bởi vì trong số 500 vị tỳ khưu này, vị thấp nhất cũng là bậc Nhập Lưu, không còn phải tái sanh trong đọa xứ, và chắc chắn sẽ giác ngộ.”
Imesañhi, sāriputta, pañcannaṁ bhikkhusatānaṁ yo pacchimako bhikkhu so sotāpanno avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo”ti.
Sau đó, đức Thế Tôn nói với đại đức Ānanda: “Này Ānanda, thông lệ của các đấng Như Lai là các vị không sẽ không rời khỏi trú xứ ấy khi chưa thông báo cho những người đã thỉnh mời các vị đến cư trú mùa mưa.
Atha kho bhagavā āyasmantaṁ ānandaṁ āmantesi—“āciṇṇaṁ kho panetaṁ, ānanda, tathāgatānaṁ yehi nimantitā vassaṁ vasanti, na te anapaloketvā janapadacārikaṁ pakkamanti.
Này Ānanda, hãy thông báo cho Bà-la-môn Verañja biết chúng ta sẽ rời đi.”
Āyāmānanda, verañjaṁ brāhmaṇaṁ apalokessāmā”ti.
“Bạch Ngài, xin vâng.” Đại đức Ānanda đáp lời đức Thế Tôn.
“Evaṁ, bhante”ti kho āyasmā ānando bhagavato paccassosi.
Sau đó, đức Thế Tôn mặc y, cầm bát cùng với thị giả là đại đức Ānanda đi đến tư gia của Bà-la-môn Verañja, sau khi đến, đức Thế Tôn ngồi xuống chỗ ngồi đã được soạn sẵn.
Atha kho bhagavā nivāsetvā pattacīvaramādāya āyasmatā ānandena pacchāsamaṇena yena verañjassa brāhmaṇassa nivesanaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.
Khi ấy, Bà-la-môn Verañja đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
Atha kho verañjo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi.
Đức Thế Tôn nói với Bà-la-môn Verañja: “Này Bà-la-môn, ông đã thỉnh mời ta và hội chúng cư trú qua mùa mưa. Nay ta và hội chúng đến thông báo với ông.”
Ekamantaṁ nisinnaṁ kho verañjaṁ brāhmaṇaṁ bhagavā etadavoca—“nimantitamha tayā, brāhmaṇa, vassaṁvuṭṭhā, apalokema taṁ,
“Ta cùng hội chúng sẽ đi du hành trong quốc độ.”
“icchāma mayaṁ janapadacārikaṁ pakkamitun”ti.
“Thật vậy, Thưa Tôn Giả Gotama, các vị đã trú qua mùa mưa theo lời thỉnh mời của tôi, nhưng tôi chưa cúng dường vật chi đến các Ngài.
“Saccaṁ, bho gotama, nimantitattha mayā vassaṁvuṭṭhā; api ca yo deyyadhammo so na dinno.
Điều ấy thật là không phải!
Tañca kho no asantaṁ,
Không phải vì tôi không muốn bố thí, mà vì công việc của người tại gia quá bận rộn. Xin Tôn Giả Gotama nhận lời thỉnh mời thọ thực vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.”
nopi adātukamyatā, taṁ kutettha labbhā bahukiccā gharāvāsā bahukaraṇīyā. Adhivāsetu me bhavaṁ gotamo svātanāya bhattaṁ saddhiṁ bhikkhusaṅghenā”ti.
Đức Thế Tôn im lặng, nhận lời.
Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.
Rồi đức Thế Tôn với một thời thuyết pháp, giảng dạy, khích lệ, khuyến khích và làm cho Bà-la-môn Verañja hoan hỷ, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và từ biệt.
Atha kho bhagavā verañjaṁ brāhmaṇaṁ dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṁsetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
Sáng hôm sau, Bà-la-môn Verañja đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm tại tư gia của mình rồi cho người thông báo đến đức Thế Tôn rằng: “Thưa Tôn giả Gotama, đã đến giờ. Thức ăn đã chuẩn bị xong.”
Atha kho verañjo brāhmaṇo tassā rattiyā accayena sake nivesane paṇītaṁ khādanīyaṁ bhojanīyaṁ paṭiyādāpetvā bhagavato kālaṁ ārocāpesi—“kālo, bho gotama, niṭṭhitaṁ bhattan”ti.
Vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y cầm bát đi đến tư gia của Bà-la-môn Verañja, sau khi đến, Ngài cùng với hội chúng tỳ khưu ngồi xuống chỗ ngồi được đặt sẵn.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena verañjassa brāhmaṇassa nivesanaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi saddhiṁ bhikkhusaṅghena.
Sau đó, Bà-la-môn Verañja đã tự tay làm hài lòng và toại ý hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bát, Bà-la-môn Verañja đã dâng lên đức Thế Tôn ba tấm y và dâng lên chư tỳ khưu mỗi vị một xấp vải đôi.
Atha kho verañjo brāhmaṇo buddhappamukhaṁ bhikkhusaṅghaṁ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappetvā sampavāretvā bhagavantaṁ bhuttāviṁ onītapattapāṇiṁ ticīvarena acchādesi, ekamekañca bhikkhuṁ ekamekena dussayugena acchādesi.
Rồi đức Thế Tôn với một thời thuyết pháp, giảng dạy, khích lệ, khuyến khích và làm cho Bà-la-môn Verañja hoan hỷ, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và từ biệt.
Atha kho bhagavā verañjaṁ brāhmaṇaṁ dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṁsetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
Sau khi đã trú tại Verañjā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã đi dọc theo Soreyya, Saṅkassa, Kaṇṇakujja, và đến được bến đò Payāga9Payāga là một thị trấn ở bên bờ sông Gaṅgā, nay là thành phố Allahabad (ND). Ở đó, ngài băng qua sông Hằng (Gaṅgā) và tiếp tục đi đến Ba-la-nại (Bārāṇasī).
Atha kho bhagavā verañjāyaṁ yathābhirantaṁ viharitvā anupagamma soreyyaṁ saṅkassaṁ kaṇṇakujjaṁ yena payāgapatiṭṭhānaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā payāgapatiṭṭhāne gaṅgaṁ nadiṁ uttaritvā yena bārāṇasī tadavasari.
Sau khi lưu lại Ba-la-nại bao lâu tùy thích, ngài lên đường du hành về phía Vesālī.
Atha kho bhagavā bārāṇasiyaṁ yathābhirantaṁ viharitvā yena vesālī tena cārikaṁ pakkāmi.
Khi đến thành Vesālī. Đức Thế Tôn ở trong đại tự có mái chóp nhọn tại Đại Lâm.
Anupubbena cārikaṁ caramāno yena vesālī tadavasari. Tatra sudaṁ bhagavā vesāliyaṁ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyanti.
Dứt tụng phẩm Verañjā
Verañjabhāṇavāro niṭṭhito.
Ghi chú:
- 1Đức Thế Tôn Vipassī, đức Thế Tôn Sikhī, và đức Thế Tôn Vessabhū có tuổi thọ rất dài, và hội chúng rất đông đảo (3 hội chúng đều là bật lậu tận). Xem DN14 Kinh Đại Bổn
- 2Trong kinh DN14 Kinh Đại Bổn có ghi lại Đức Phật Vipassī có ban hành giới bổn đến các Vị Tỳ Khưu một cách rất vắn tắt, chủ yếu để nhắc nhở nhau, vì Hội Chúng của Ngài chỉ toàn là Bậc Thánh Nhân.
- 3Suy tầm về ly dục, suy tầm về vô sân, và suy tầm vô hại (VinA. i, 188)
- 4Chớ suy tầm về ngũ dục, chớ suy tầm về sân hận, chớ suy tầm về hãm hại (Sđd)
- 5Tác ý đến vô thường, tác ý đến khổ não, tác ý đến vô ngã, tác ý đến bất tịnh (Sđd)
- 6Chớ tác ý đến bốn điều đối nghịch trên là: thường, lạc, ngã, tịnh (Sđd)
- 7Hãy từ bỏ bất thiện pháp (Sđd)
- 8Hãy thành tựu và an trú vào thiện pháp (Sđd)
- 9Payāga là một thị trấn ở bên bờ sông Gaṅgā, nay là thành phố Allahabad (ND)